Roosevelt cải tổ nông nghiệp và nhà máy như thế nào?
Tổng thống Franklin D. Roosevelt khởi xướng các chương trình cải tổ nông nghiệp và sản xuất khi lên nắm quyền vào năm 1933. Minh họa bởi Clifford Berryman.
Khi nông dân Mỹ ngăn cản tịch biên nhà cửa
Giáo sư Philip Scranton mới có bài ở Bloomberg, kể về việc ngày 7 tháng Năm, 1933 Tổng thống Franklin D. Roosevelt đã có bài trên sóng phát thanh quốc gia 'câu chuyện bên lò sưởi' lần thứ hai của mình, phác thảo những cải tổ về nông nghiệp và sản xuất trong Chính sách Kinh tế mới (New Deal).
Cả hai ngành này đều bị ảnh hưởng (afflict) bởi sản xuất thừa, giá cả thấp và lương thấp khi Đại Khủng hoảng kéo dài. Đối phó với tình hình này, Roosevelt hiện đang đề xuất Chính phủ sẽ can thiệp vào nền kinh tế với quy mô lớn.
Dự luật Cứu trợ nông nghiệp (Farm Relief) sẽ tăng lợi nhuận cho nông dân và ngăn chặn việc sản xuất thừa tai hại, đã khiến cho giá thấp trong quá khứ. Các chính sách sản xuất mới sẽ mang lại cho công nhân mức lương công bằng, ngăn chặn cạnh tranh khốc liệt, thời gian làm việc quá dài, và sản xuất thừa.
Sau bài phát biểu trên sóng phát thanh của Roosevelt, nông dân trồng lúa mỳ Tom Campbell ở Montana điện tới Nhà Trắng: 'Ngài có niềm tin của 120 triệu người dân. Lòng quả cảm và sự thẳng thắn của Ngài đã làm mọi người vui sướng.' Các lãnh đạo doanh nghiệp 'đánh giá cao và rất cám ơn các công việc mang tính xây dựng mà Ngài đã làm vì lợi ích của chúng tôi,' Thomas J. Watson, Giám đốc International Business Machines Corp (IBM), viết.
Roosevelt bãi bỏ các cơ quan chủ quản chịu trách nhiệm về tài chính nông nghiệp và thành lập Cơ quan Tín dụng Nông sản hợp nhất, nhằm quản lý các khoản vay hiện tại trị giá 2,5 tỷ USD và một quỹ đầu tư 2 tỷ USD cho các khoản vay trong tương lai. Luật Điều chỉnh Nông nghiệp đã giảm diện tích và sản lượng, đánh thuế trên nông sản để tăng giá và bồi thường cho nông dân, và kiểm soát hoạt động mua bán trên thị trường thông qua giấy phép và giám sát các thỏa thuận giữa các nhà sản xuất, nhà chế biến và nhà phân phối.
Bộ trưởng Nông nghiệp Henry Wallace mô tả ngắn gọn tính cấp thiết 'việc điều chỉnh nông nghiệp của chúng ta theo thị trường thực tế và phải làm như vậy càng nhanh càng tốt.'
Thực hiện chính sách công nghiệp còn khó hơn căn cứ vào sự khác biệt lớn trong các lĩnh vực khai thác khoáng sản, dệt may, sắt thép, dầu, ôtô và máy móc. Tuy nhiên tất cả các ngành công nghiệp đều phải đối mặt với tình hình lương giảm và thất nghiệp gia tăng. Thậm chí một người cứng đầu như Henry Ford, người thường phản đối sự can thiệp của chính phủ trong nền kinh tế, cũng thừa nhận rằng 'không gì có thể đúng trong đất nước này cho đến khi tiền lương là đúng. Nếu chính phủ có thể giải quyết những vấn đề này, thật là tốt.'
Đạo luật Phục hồi Công nghiệp Quốc gia đề xuất các hiệp hội ngành nghề tạo ra các quy tắc cạnh tranh công bằng nhằm chấm dứt cuộc đua xuống đáy, từ đó dẫn tới tăng cơ hội việc làm và giá cả. Những quy tắc này cũng khẳng định các quyền của người lao động được tổ chức và thương lượng tập thể.
Ngoài ra, dự luật này sẽ thêm 3,3 tỷ USD cho các công trình công cộng liên bang, giảm thất nghiệp và cải thiện cơ sở hạ tầng. Dự luật thậm chí còn có một điều khoản để kiểm soát biến động bất thường của ngành công nghiệp dầu.
Các tranh luận về dự luật này tiếp tục đến tháng Sáu, Hiệp hội quốc gia các nhà sản xuất chống lại công đoàn đã tổ chức chiến dịch phản đối. Chủ tịch General Electric Co - Gerard Swope tuyên bố sự ủng hộ của mình, phê phán các hiệp hội thương mại đã không hành động và thái độ thù địch của họ đối với quy định khẩn cấp này.
Việc ban hành Đạo Luật này là chắc chắn, nhưng cuộc đấu tranh công nghiệp chỉ mới bắt đầu.
Sơn Phạm
Bloomberg
Ngày Appomattox: điều mọi người dân Mỹ nên nhớ
Tags: economics
Vào mùa xuân năm 1933, khu vực kinh tế nông nghiệp đang trong tình trạng suy sụp. Điều đó khiến những người khởi xướng Chính sách kinh tế mới có cơ sở để thử nghiệm niềm tin của họ rằng việc điều tiết nhiều hơn sẽ giải quyết được nhiều vấn đề của đất nước. Năm 1933, Quốc hội đã thông qua Luật Điều chỉnh Nông nghiệp (AAA) nhằm trợ giúp kinh tế cho nông dân. AAA đề xuất tăng giá nông sản bằng cách trả cho nông dân một khoản trợ cấp đền bù cho phần sản lượng tự nguyện cắt giảm. Nguồn tiền cho những khoản trợ cấp này có được do số thu từ thuế đánh vào những ngành công nghiệp chế biến nông sản. Tuy nhiên, cho đến khi điều luật này chính thức trở thành luật, thì vụ gieo trồng đã diễn ra rồi, và AAA buộc phải trả cho nông dân một khoản tiền trợ cấp để họ phá bỏ các mảnh đất đã được gieo trồng. Việc cắt giảm sản lượng và trợ cấp nông nghiệp thông qua Công ty Tín dụng Nông sản - là công ty thu mua nông sản để cất trữ - khiến cho sản lượng trên thị trường giảm xuống và giá nông sản tăng lên.
Từ năm 1932 đến năm 1935, thu nhập của nông dân tăng hơn 50% nhưng chỉ phần nào là nhờ vào các chương trình liên bang mà thôi. Trong những năm đó, khi chủ đất được khuyến khích không dùng đất vào trồng trọt, thải hồi những người làm thuê và những người lĩnh canh, thì một trận hạn hán khắc nghiệt đã ập xuống các bang vùng Plains. Gió mạnh và những cơn bão cát đã tàn phá khắp vùng khiến miền này nổi danh là xứ bụi trong suốt những năm 1930. Mùa màng bị tàn phá và các nông trại bị phá hủy.
Cho đến năm 1940, khoảng 2,5 triệu người đã rời khỏi các bang vùng Plains, tạo thành dòng người di cư lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ. Trong số đó, khoảng 200.000 người đã đến California. Những người di cư không chỉ gồm có nông dân mà còn bao gồm cả lao động chuyên môn, người bán lẻ và nhiều lớp người khác mà sinh kế của họ gắn với sự thăng trầm của các cộng đồng nông nghiệp. Nhiều người trong số họ cuối cùng đã phải tranh nhau tìm kiếm những công việc mang tính thời vụ như thu hái nông sản với đồng lương cực kỳ rẻ mạt.
Chính phủ đã ra tay cứu trợ bằng cách thành lập Cơ quan Bảo toàn Đất đai năm 1935. Những tập quán canh tác làm tàn phá đất đai đã làm cho ảnh hưởng của hạn hán càng trầm trọng thêm. Cơ quan này đã hướng dẫn nông dân các biện pháp làm hạn chế xói mòn. Ngoài ra, gần 30.000 km cây trồng đã được trồng lên để làm giảm sức mạnh của gió.
Tuy AAA phần nhiều là thành công, nhưng nó vẫn bị bãi bỏ vào năm 1936, khi các khoản thuế đánh vào các công ty chế biến thực phẩm bị Tòa án Tối cao cho là không hợp hiến. Quốc hội đã nhanh chóng thông qua một điều luật hỗ trợ nông dân, cho phép chính phủ trợ cấp cho những nông dân chấp nhận bỏ đất không gieo trồng nhằm mục đích bảo toàn đất đai. Năm 1938, với đa số thành viên ủng hộ Chính sách kinh tế mới tại Tòa án Tối cao, Quốc hội đã phục hồi điều luật AAA.
Cho tới năm 1940, gần sáu triệu nông dân đã nhận được trợ cấp liên bang. Các chương trình Chính sách kinh tế mới đã cấp các khoản vay cho những vụ gieo trồng tăng thêm, cung cấp bảo hiểm lúa mì và hệ thống cất trữ theo kế hoạch, nhằm đảm bảo nguồn cung cấp lương thực ổn định. Cuối cùng, chính sách ổn định kinh tế cho nông dân cũng đã được hoàn tất, mặc dù chính phủ đã phải giám sát vô cùng chặt chẽ và bỏ ra những khoản chi phí khổng lồ.
Hải quân Mỹ đã tấn công các tàu ngầm U-boat của Đức, và Hitler đã tức giận với Roosevelt vì những màn công kích liên tiếp chống lại ý thức hệ của Đức Quốc xã.
Hitler tin rằng Nhật Bản đã mạnh hơn nhiều so với trước đây và một khi họ đánh bại Mỹ, họ sẽ quay lại giúp Đức đánh bại Liên Xô.
Do đó, vào 3:30 chiều (giờ Berlin) ngày 11 tháng 12, Đại biện Đức tại Washington đã trao cho Ngoại trưởng Mỹ Cordell Hull một bản sao tuyên bố chiến tranh.
Cùng ngày, Hitler đã trình bày trước Quốc hội để bảo vệ sự tuyên chiến của mình.
Theo Hitler, thất bại của Chính sách Kinh tế mới (New Deal) là nguyên nhân thực sự của chiến tranh, khi Tổng thống Roosevelt cố gắng che đậy sự sụp đổ của chương trình kinh tế này bằng sự giúp đỡ từ các nhà tài phiệt và người Do Thái.
“Đầu tiên, ông ta kích động chiến tranh, sau đó bóp méo các nguyên nhân rồi quấn mình trong chiếc áo choàng đạo đức giả của Kitô giáo một cách ghê tởm. Từ từ nhưng rất chắc chắn, ông ta đẩy nhân loại đến chiến tranh,” Hitler tuyên bố.
Các thành viên Quốc hội khi ấy đã đứng bật dậy với tràng pháo tay vang dội.