Ban Ki Moon và người Minh Hương
shared from Đàm Quang Minh.
-----
Dân mạng Việt Nam được phen cười nghiêng ngả vì vụ nhận vơ ông Ban Ki Moon. Nhưng điều đó không phải lạ vì trước đó cũng nhiều người Việt thành danh ở nước ngoài được cả nước quan tâm như ông PTT Đức mang cái tên chẳng còn tí Việt Nam nào Philipp Roesler.
Tôi chợt nhớ đến những người Minh Hương vốn là những quan lại, trí thức nhà Minh chạy trốn nhà Thanh vào tận miền Nam để lập cuộc sống mới. 3000 người Minh Hương khi đó giờ đã hòa hẳn vào dân tộc Việt Nam mà mang lại nhiều giá trị đáng kể trong đó có nhiều danh nhân như Mạc Cửu, Võ Trường Toản, Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhân Tịnh, Phan Thanh Giản, Mạc Thiên Tích, Vương Hồng Sển, ...
Tôi có dịp nói chuyện với nhiều người Hàn Quốc ở Việt Nam và họ cũng có một mong muốn có thể lập nghiệp ở Việt Nam vì họ vẫn còn nỗi lo sợ chiến tranh với Bắc Triều Tiên. Đinh Thiện Lý, người chủ Đài Loan của Phú Mỹ Hưng cũng đã nói coi Việt Nam như quê hương thứ hai và di sản của ông tại Việt Nam vẫn là quá lớn. Và nhiều người Đài Loan cũng tìm cách như vậy. Tiếc là bây giờ có thể họ đã sợ Việt Nam và Việt Nam ngày nay có thể không bao dung như thời nhà Nguyễn.
Thay vì tự hào về những gì viển vông xa lạ thì hãy trân trọng ngay những gì mình đang có. Nước Mỹ tự hào vì thu hút được bao nhiêu nhân tài, rất nhiều bạn bè giỏi giang của tôi kể cả những người rất rất giỏi cũng đều đang ở Mỹ. Đừng tự hào có nhiều người Việt thành công ở nước ngoài mà hãy làm thế nào để cả người Việt và người nước ngoài có thể thành công và đóng góp ngay tại Việt Nam.
Thay vì tự hào về ông Philipp nào đó có gốc gác Việt Nam thì hãy tự hào Việt Nam thành công có đóng góp của Mạc Cửu hay Đinh Thiện Lý.
Tượng Mạc Cửu tại Hà Tiên.
Bài trước: Mô thức giáo dục mới: Dạy con ở nhà
Tags: columnist
Ban đầu chữ "hương" dùng chữ 香 có nghĩa là "hương hỏa" (香火), đến năm 1827 đổi sang chữ 鄉 nghĩa là "làng". Như vậy Minh Hương có thể hiểu là "làng của người Minh" và cũng có thể hiểu là "làng sáng sủa", sau được dùng để gọi cộng đồng người Hoa ở Việt Nam.
Năm 1698, ở vùng Phiên Trấn - Bến Nghé - Sài Gòn đã hình thành nên làng Minh Hương ở Gia Thạnh, Chợ Lớn cũ.
Tấm biển khắc 4 chữ thiện tục khả phong do vua Tự Đức ban tặng năm 1863 nay vẫn còn treo trước chính điện đình Minh Hương Gia Thạnh. Có thể nói đây là làng duy nhất hoặc hiếm hoi có hương ước ở Nam Bộ thời nhà Nguyễn: Minh Hương xã hương ước khoán văn.
Ca dao có câu nói về phong hóa làng Minh Hương:
Gỏi chi ngon bằng gỏi tôm càng
Đố ai lịch sự cho bằng làng Minh Hương.
Việc dịch sai này liên quan đến nhiều quan lại cao cấp được nhắc đến trong cuốn sách: Phạm Phú Thứ là Tham tri Bộ Lại thì được dịch thành “phó chánh án, tòa án quan lại” (tr. 148)…
Dẫu có lật hết các loại sách từ điển quan chức VN thì người đọc cũng không thể nào tìm nổi những chức vụ được nêu trên. Có lẽ, sau khi “quy đổi” các phẩm hàm quan chức triều Nguyễn sang tiếng Pháp, lúc dịch ngược lại tác giả đã quên mất tên gốc tiếng Việt chăng?
Không chỉ vậy, tác giả còn đeo quân hàm lên cầu vai Nguyễn Tri Phương thành “thống chế” (tr. 209, tr. 220…). Thống chế là quân hàm cao nhất trong quân đội được sử dụng ở các nước phương Tây như Pháp, Anh và Đức; còn ở VN thì không hề xuất hiện thuật ngữ thống chế dành cho người chỉ huy quân đội ở thế kỷ 19. Tác giả còn gọi quan đại thần Phan Đình Bình là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng (tr. 220), gọi nam tước Gros là “Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Pháp tại Trung Quốc” và bá tước De Kleckowski là “Bí thư sứ bộ Pháp” (cùng tr. 48). Hoặc gọi Lâm Tắc Từ (sách viết: Liu Zexu) là “Cao ủy Hoàng đế Trung Quốc” (tr. 46)… Các chức vụ đại sứ đặc mệnh toàn quyền, bí thư sứ bộ hay cao ủy đều xuất hiện ở thế kỷ XX sau Thế chiến II.