Nhật Bản hậu chiến

copy từ internet

Trước khi đi vào thời kỳ hậu chiến của Nhật, chúng tôi xin tóm tắt ít điều về trận chiến của Nhật ở Á Châu Thái Bình Dương:

Từ giữa thế kỷ 19 (1868), dưới thời Minh Trị Thiên Hoàng, do thức thời biết học Tây Phương canh tân, nên Nhật đã thoát khỏi sự thôn tính, chiếm làm thuộc địa của những cường quốc Âu Mỹ. Nhưng khi trở thành cường quốc vào cuối thập niên 1920, Nhật cũng lại đi vào con đường bành trướng thực dân, xâm chiếm các nước Á Châu:
- Năm 1910, chiếm Cao Ly (Hàn Quốc).
- Năm 1932, chiếm Mãn Châu.
- Tháng 7/1937, xâm lăng Trung Quốc.
- Tháng 9/1940, Nhật gia nhập liên minh với Đức Quốc Xã của Hiler và Phát Xít Ý của Mussolini thành khối Trục Rome – Berlin – Tokyo.
- Tháng 7-1941, không quân Nhật tấn công Trân Châu Cảng (Pearl Harbor) của Hoa Kỳ.
- Năm 1941, chiếm Manila, Philippines, Walk Island, Guam và Miến Điện.

Từ đầu thế chiến II (1939), Hoa Kỳ đứng ngoài chiến tranh do đạo luật trung lập (1935-1937). Nhưng từ khi Đức tấn công Anh quốc và Nhật Bản xâm chiếm mấy nước Á Châu thì chính quyền Roosevelt đã thuyết phục Quốc Hội bỏ chính sách trung lập. Khởi đầu viện trợ quân dụng cho Anh, rồi sau khi bị Nhật tấn công Trân Châu Cảng thì Hoa Kỳ tuyên chiến với cả khối Trục.

Tháng giêng năm 1942, ở Washington, 26 quốc gia, đứng đầu là Hoa Kỳ, Anh Quốc và Liên Bang Sô Viết, kết thành Đồng Minh để đối phó với khối Trục.

Năm 1942, ở mặt trận Thái Bình Dương, Nhật thảm bại ở trận Coral Sea, và trận Midway. Sau hai trận này hải quân Hoa Kỳ lấy lại ưu thế.

Cũng năm 1942, Hoa Kỳ chiếm lại Guadal Carnal ở tây nam Thái Bình Dương, một đảo có vị trí chiến lược, không những ngăn Nhật tiến đánh Úc Châu mà còn là một bàn đạp để tấn công Nhật ở nam Thái Bình Dương. Vì thế chỉ sau một năm trận Trân Châu Cảng, chiến tranh ở Thái Bình Dương đã nghiêng về phía Hoa Kỳ.

Từ đây Nhật chuyển về thế thủ, quyết tâm giữ những đảo đã chiếm được với ý định kéo dài chiến tranh để đánh bại tinh thần Hoa Kỳ. Nhưng tướng Mac Arthur đả sử dụng chiến lược gọi là “Island hopping”, theo đó lực lượng Mỹ trập trung chiếm những đảo có vị trí chiến lược, còn để lại cho quân Nhật những đảo khác. Kết quả của chiến lược này là những đảo quân Nhật giữ đã bị cô lập, bị cắt nguồn tiếp tế, nên đã tự bị hủy.

Sau khi chiếm lại Phi Luật Tân (5-1945), quân Mỹ chiếm Okinawa, cắt Nhật làm đôi và xiết chặt chu vi phong tỏa. Trên biển, thương thuyền và tàu tiếp tế của Nhật bị tàu ngầm Mỹ tấn công, còn trên lãnh thổ Nhật thì bị B-29 thả bom tàn phá những thành phố lớn và hủy diệt những trung tâm kỹ nghệ và quân sự.

Mặc dù ở trong tình thế tuyệt vọng, với tổn thất quá lớn và bị phong tỏa, nhưng Nhật vẫn tiếp tục chiến đấu theo chủ trương của phe tướng lãnh chủ chiến là cứ để cho quân Mỹ vào Nhật và quân dân Nhật sẽ chiến đấu đến người cuối cùng. Vì thế Hoa Kỳ đã đề ra hai giải pháp để kết thúc chiến tranh: Thứ nhất, thực hiện một cuộc xâm lăng và thứ nhì, xử dụng một loại vũ khí mới. Theo Tổng Thống Harry Truman (Tổng Thống Roosevelt bị bệnh chết ngày 12/4/1945), thì trận chiến trên lãnh thổ Nhật cần 1 triệu quân và sẽ kéo dài tới 1946 với sự tổn thất ghê gớm cho cả hai bên, còn xử dụng vũ khí mới thì kết thúc chiến tranh nhanh chóng. Cuối cùng giải pháp thứ nhì đã được chọn.

Ngày 6/8/1945, trái bom nguyên tử với sức tàn phá 20 ngàn tấn TNT được thả xuống Hiroshima, phá hủy 3 square miles thành phố, giết và làm bị thương trên 160.000 người. Vì không nhận được sự đáp ứng tích cực của Nhật, nên ngày 9/8 Mỹ thả trái bom thứ nhì xuống thành phố cảng Nagasaki, giết và làm bị thương khoảng 130.000.

Ngày 15/8, Nhật Hoàng Hirohito tuyên bố đầu hàng vô điều kiện và ngày 2/9 văn kiện đầu hàng được ký trên chiến hạm Missouri đậu trong vịnh Tokyo giữa tướng Umeza đại diện Nhật và tướng Mac Arthur đại diện Đồng Minh. Sau đó hàng chục ngàn binh sĩ Đồng Minh đổ bộ vào Nhật, ghi dấu lần đầu tiên trong lịch sử, Nhật bị quân đội ngoại quốc chiếm đóng.

***
Sau khi đầu hàng, Nhật được Hoa Kỳ tiếp thu và Hoa Kỳ đã thực hiện một chế độ chiếm đóng theo những điều khoản của Tuyên Ngôn Posdam giữa Hoa Kỳ, Anh và Trung Hoa (Tưởng Giới Thạch) ngày 26/7/1945 và chính sách của Hoa Kỳ đối với Nhật do Bộ Ngoại Giao, Chiến Tranh và Hải Quân soạn thảo ngày 6/9/45. Trong đó có hai điểm căn bản:
Thứ nhất, thay đổi Nhật thành một quốc gia hòa bình.
Thứ nhì, xây dựng một nước Nhật dân chủ.

Trên danh nghĩa thì đây là sự chiếm đóng của những cường quốc Đồng Minh. Nhưng thực chất thì Hoa Kỳ chịu trách nhiệm và tướng Mac Arthur, tư lệnh lực lượng Đồng Minh ở mặt trận Thái Bình Dương đã được trao cho nhiệm vụ thay đổi nước Nhật. Với chức vụ Tư Lệnh Tối Cao của Cường Quốc Đồng Minh (Supreme Commander of the Allied Powers – SCAP), Mac Arthur thiết lập Đại Bản Doanh ở Tokyo với 5.000 nhân viên và khoảng 500.000 quân để cai trị 70 triệu dân Nhật. Nhưng đó không phải là một chính quyền quân sự mà Mac Arthur đã cai trị Nhật theo đường lối gián tiếp thông qua chính quyền Nhật, vẫn để người Nhật cai trị người Nhật với sự chỉ đạo và chính sách của SCAP. Trong 7 năm cai trị Nhật theo chính sách này, Mac Arthur đã hoàn thành được nhiệm vụ thay đổi nước Nhật. Về cá nhân, ông được dân Nhật kính trọng gọi là “Blue- eyed Shogun”. Về chính sách, ông đã đạt được điều mà sử gia Mikiso Hane đã tổng kết là “Trong lịch sử không có dân tộc nào khác đã được đối xử nhân đạo hơn và nhận được nhiều phúc lợi hơn trong tay của những người chinh phục… Những mục tiêu mà người chiếm đóng theo đuổi không phải là trả thù hay khai thác bóc lột mà là những cải cách giúp Nhật đạt được một xã hội tự do và dân chủ”.
(Mikiso Hane, Modern Japan: A historical Survey, Westview Press, Colorado, 1986. tr. 344)

Đó là Mac Arthur của Hoa kỳ, còn Nhật Bản trong thời kỳ bị chiếm đóng cũng xuất hiện một nhân vật đối tác tương xứng với Mac Arthur là Yoshida Shigeru. Ông xuất thân từ Tokyo Imperial University và đi vào ngành ngoại giao từ 1906. Trước chiến tranh, Yoshida đã giữ nhiều chức vụ ở Trung Hoa, làm Đại sứ ở Ý và ở Anh Quốc năm 1936. Vì lập trường chống chế độ quân phiệt, ông bị triệu hồi từ nhiệm sở ở London và buộc phải rời khỏi ngành ngoại giao tháng 3/1939.

Không cộng tác với nhóm quân phiệt và thêm phần bị bắt vì những hoạt động cầu hòa trong chiến tranh, nên Yoshida đã là một trong một số ít chính khách có tiếng trước chiến tranh không bị chế độ chiếm đóng thanh trừng. Vì thế ngay sau khi Mac Arthur thiết lập Tổng Hành Dinh ở tòa nhà Dai Ichi ở Tokyo, Yoshida đã được triệu lên thủ đô để nhận chức Bộ Trưởng Ngoại Giao. Rồi sau đó được thỉnh cầu làm Thủ Tướng đầu năm 1946 và đã giữ chức vụ này gần 7 năm, suốt giai đoạn Hoa Kỳ chiếm đóng.

Yoshida là một chính khách bảo thủ. Vào thời kỳ đầu chế độ chiếm đóng, ông đã xếp đặt cuộc hội kiến lịch sử đầu tiên của Nhật Hoàng Hirohito với Mac Arthur và đã hết lòng bảo vệ ngôi vua. Rất thực dụng, Yoshida đã biết cách làm việc với Mac Arthur để đưa Nhật vượt qua giai đoạn hậu chiến quá khó khăn, đồng thời đã biết vận dụng những chính sách của SCAP để chủ động thay đổi nước Nhật và mở đường cho Nhật đi vào thế giới dân chủ.

Sau đây là mấy thành tựu lớn của Nhật sau chiến tranh:
I. Bại mà thành dân chủ
Sau khi Nhật đầu hàng, Tổng thống Harry Truman đã tuyên bố là việc chiếm đóng Nhật có hai mục đích: Thứ nhất, chuyển Nhật thành một quốc gia hòa bình bằng cách tận diệt những nhân tố đưa đến chủ nghĩa quân phiệt và chiến tranh. Thứ nhì, xây dựng trên nước Nhật một nền dân chủ mạnh.

Còn tướng Mac Arthur khi nhận trách nhiệm lãnh đạo nước Nhật đã có một chủ kiến là đến Nhật để “tạo dựng một quốc gia mới” và ông đã ghi một danh sách những việc phải làm như sau:

“Hủy bỏ hiến pháp Minh Trị thay vào bằng hiến pháp Mac Arthur. Nhật phải từ bỏ chiến tranh vĩnh viễn. Giáng Hoàng Đế Nhật từ thần linh xuống làm người. Tách Thần Đạo ra khỏi nhà nước. Giải phóng nông dân ra khỏi chế độ nông nô và được cấp đất. Công nhân được phép tổ chức công đoàn và đình công chống lại chủ. Giải tán Zaibatsu, hệ thống đại công ty kỹ nghệ thương mại và thay bằng một hệ thống kinh tế với những xí nghiệp nhỏ. Phụ nữ được bình đẳng với nam giới. Xóa bỏ chế độ gia trưởng, trong đó người cha, người chồng là những ông vua nhỏ. Thanh trừng những người đã tạo ra chiến tranh. Hủy bỏ phương pháp học thuộc lòng và tôn thờ Hoàng Đế ở trường học. Mở cửa chính trị cho mọi người…”.

Qua lời của Tổng Thống Truman và qua danh sách ghi việc của tướng Mac Arthur, chúng ta hiểu một điều là nửa thế kỷ học Tây phương để canh tân từ thời Phục Hưng Minh Trị (1860), Nhật Bản đã trở thành cường quốc tính tranh bá cùng những cường quốc Tây phương, nhưng đã bỏ quên nâng cao giá trị dân chủ và vị thế con người trong xã hội Nhật Bản. Vì thế trong chương trình dựng lại nước Nhật, tướng Mac Arthur khởi đầu đã tiến hành việc phi quân sự hóa và xây dựng chế độ dân chủ:

1. Phi quân sự hóa:
Vấn đề này gồm mấy việc:
a. Giải ngũ quân đội Nhật và hồi hương binh sĩ cùng thường dân Nhật ở ngoài nước Nhật. Việc hồi hương 3.300.000 binh sĩ và khoảng 3.200.000 thường dân đã kết thúc vào đầu năm 1948.
b. Những cơ sở quân sự Nhật ở Nhật, ở Đông Nam Á và Thái Bình Dương được dỡ bỏ, còn quân dụng, vũ khí bị phá hủy.
c. Thiết lập tòa án quân sự quốc tế để xử những người tạo ra chiến tranh. Việc xử án đã kéo dài từ 1946 tới 1948. Kết quả xử tử (treo cổ) 7 người trong số 25 bị cáo, trong đó có tướng Tojo, thủ tướng chiến tranh từ 1941 đến 1944. 18 người còn lại đã nhận những án tù dài hạn, nhưng đến năm 1957, những người này đã được giảm án.
d. Thanh trừng những phần tử quan trọng liên hệ đến những nỗ lực chiến tranh. Việc điều tra này đã kéo dài từ 1946 đến 1948. Kết quả là 220.000 người gồm doanh nhân, kỹ nghệ gia và cựu sĩ quan đã bị loại ra khỏi guồng máy chính quyền, hay bị cấm hoạt động trong khoảng 5 năm hay hơn.

Trên tiến trình xử tội phạm chiến tranh, số phận của Hoàng Đế Hirohito và số phận của chế độ quân chủ cũng được bàn cãi ở Nhật cũng như ở Mỹ. Nhưng tướng Mac Arthur đã nhận chân vị thế của Hoàng Đế trong lòng người dân Nhật, trong truyền thống Nhật và giá trị của ông trong việc ổn định xã hội để thực hiện những mục tiêu của việc chiếm đóng. Vì thế khi chính quyền Mỹ hỏi ông về vấn đề này, Mac Arthur đã trả lời: “Tôi tin rằng nếu Hoàng Đế bị kết tội và có thể bị treo cổ như là một tội phạm chiến tranh thì chính quyền quân sự Mỹ sẽ phải được thiết lập trên khắp nước Nhật, và chiến tranh du kích có thể sẽ bùng nổ”.
(Mikiso Hane: đd, tr. 346)

Nhiều sử gia viết về nước Nhật đã có một nhận định chung là sự sáng suốt của Mac Arthur đã cứu Hoàng Đế Hirohito và giữ yên chế độ quân chủ. Nhưng vị trí của ông và bản chất của chế độ quân chủ sẽ được thay đổi trong bản hiến pháp mới do SCAP soạn thảo để làm nền cho việc dân chủ hóa chế độ.

II. Bại mà thành cường quốc kinh tế trong 20 năm
1. Di sản hậu chiến:
Từ cuối năm 1944, khi quân Mỹ đã khép chặt vòng vây và làm chủ không phận Nhật Bản, thì Tokyo và nhiều thành phố lớn của Nhật đã trở thành biển lửa với những trận bom của hàng trăm pháo đài bay B-29. Từ đó ta có thể hình dung được sự tàn phá vào năm cuối cùng của cuộc chiến. Vì thế trong mấy năm đầu của thời hậu chiến, Nhật đã phải chịu thảm kịch: Nạn đói và dân không nhà mà ký giả William Chapman đã ghi lại như sau:

“Mùa đông 1945-46 là một kinh nghiệm đau thương… Những trận không tập bom cháy của mùa xuân trước đã để lại cho Tokyo một vùng rộng lớn gạch vụn bao quanh hoàng thành, mặc dù khu dinh thự không hề hấn gì. Bên ngoài, những đường hào lặng lẽ, con dân của Hoàng Đế đã phấn đấu gom lại những thứ lỉnh kỉnh để làm nơi che mưa nắng. Họ dựng những miếng thiếc bị cháy đen, xếp gạch, chai lọ làm tường và cãi nhau về những miếng gạch vỡ. Không phải chỉ ở Tokyo là dân không nhà ngủ trong công viên. Hiroshima, Nagasaki đã biến mất, còn những thành phố khác như Osaka, Nagoya, Kobe… cũng đã trở thành những đống gạch vụn. Theo thống kê thì 90 thành phố và tỉnh lỵ cơ bản đã bị phá hủy và 8,045,094 người đã trở thành người không nhà.

Trong những miền đất hoang tàn đó, những thói quen của đời sống thường nhật trở thành nặng nề phi lý. Không có diêm, vì thế những người đàn ông đem theo những mảnh kính vỡ để châm những điếu thuốc bằng cách làm khuếch đại những tia lửa dưới ánh nắng. Những người may mắn có việc làm, lê chân quanh những văn phòng của họ trong những áo choàng dài, vì không có nhiên liệu để sưởi ấm, và ngay trong Sở Liên Lạc Trung Ương, nơi những nhà ngoại giao nói tiếng Anh giao dịch với Nhà Cầm Quyền Chiếm Đóng cũng trong tình trạng đó…

Đói đã biến nước Nhật thành một quốc gia của những người đổi chác và những kẻ hèn hạ. Hệ thống phân chia khẩu phần thực phẩm thời chiến vẫn còn nguyên trong mùa đông đó. Và những gia đình được phát phiếu theo lý thuyết có thể đổi thực phẩm ở các cửa tiệm thành phố. Nhưng hầu hết gạo, cá và rau đã được tuồn ra chợ đen, nơi mà giá cao không thể tưởng tượng nổi. Một bản nghiên cứu chính thức đã thấy rằng trong tháng 10/1945, trước khi sự thiếu hụt trở nên trầm trọng nhất, giá chợ đen thực phẩm trung bình cao hơn 132 lần giá chính thức. Có những tuần ngay cả chợ đen cũng trống trơn. Báo chí in những tấm ảnh và hình vẽ những loại cỏ thông thường với những lời chỉ dẫn trên những loại cỏ có thể ăn, và những trẻ nhỏ đi tìm cỏ ở những vùng ngoại ô Tokyo, nơi cây cỏ còn mọc…

Nạn đói đi qua mùa đông, và vào mùa xuân nhiều đám đông đứng trên đường phố với tấm bảng: “Hãy cho chúng tôi gạo”.

Nhiều lúc tưởng rằng sự sợ hãi chết đói có thể đẩy Nhật vào sự hỗn loạn cách mạng. Việc cung cấp gạo vào Tokyo từ những vùng nông thôn chỉ được một nửa số lượng cần thiết. Vào tháng Tư, lượng dự trữ chỉ còn dưới 2 ngày. Có những lời đồn đại lan truyền trong thành phố là nhà cầm quyền đã tích trữ gạo cho gia đình họ (hay để bán ra chợ đen) và những “rice mobs” đã tụ tập gần những tòa nhà công quyền. Tháng giêng năm 1946, 3000 người đã chen lấn xô đẩy lấy đường vào Kho Tiếp Liệu Quân Đội Itabashi và cuỗm đi những bao gạo, than và đậu nành. Những lãnh tụ Cộng Sản, bị tù trong chiến tranh và được phóng thích theo sắc lệnh của Mac Arthur, đã linh cảm được trong những đám đông đói là phương tiện phục sinh của đảng. Họ đã lôi cuốn 2 triệu người ủng hộ tới những cuộc tập hợp đầu tiên ngày 1 tháng Năm sau 11 năm, qua những khẩu hiệu và áp phích tố cáo những quan chức đã dấu gạo dự trữ. Chỉ riêng cuộc tập hợp ở Tokyo đã lôi kéo 500.000 người. Họ được Kyuichi Tokuda, lãnh tụ Cộng Sản mới ra khỏi tù, thúc đẩy là hãy tự mình tìm lấy thực phẩm. Ông ta hô lớn: “Hãy tìm thực phẩm người ta đã dấu kín”, “Hủy diệt đám thư lại và chế độ quân chủ – Thiết lập một chính quyền nhân dân”.

Dựa vào chủ đề đó, những người Cộng Sản và những công đoàn lao động Tả Phái tổ chức một loạt những cuộc tập hợp được gọi là “Ngày thực phẩm tháng năm” (Food May Day) và tuần hành tới cạnh Hoàng Cung. Đó là một thách thức đáng ngại đối với chính chế độ quân chủ và có lẽ hơn là bất cứ biến cố nào khác của giai đoạn này cho thấy mức độ tuyệt vọng mà cái đói đã đem đến cho dân Nhật. Một tấm áp phích chữ đỏ phất phới ở ngoài hào Hoàng Cung với hàng chữ: “Hoàng Đế ăn đầy bụng còn con dân của ngài chết đói”.
(William Chapman: Inventing Japan. Prentice Hall Press. New York. 1991. tr. 5, 6)

Nhưng dân Nhật đã không phải chịu cảnh chết đói hàng loạt trong mùa đông 1945-46, vì Hoa Kỳ đã chở thực phẩm cứu đói gồm bột mì, bắp say, sữa bột, thịt bò… Tuy vậy cái đói vẫn đi theo dân Nhật một thời gian dài.

2. Phát triển kinh tế

Di sản hậu chiến của Nhật quá nặng với những thảm kịch: Đói, không nhà, bệnh tật, cùng rất nhiều tệ nạn xã hội phát sinh do cái đói. Nhưng chỉ sau 3 năm, dân Nhật đã đẩy lui những thảm kịch và có thể đứng dậy làm lại cuộc đời. Dưới sự lãnh đạo của Yoshida, Nhật đã đưa những cải cách của SCAP vào đời sống. Và chỉ sau 20 năm, Nhật đã vượt qua một giai đoạn đen tối đầy thử thách để trỗi dậy là một thế lực kinh tế thế giới: Năm 1964 gia nhập Tổ Chức Hợp Tác và Phát Triển Kinh Tế (Organization of Economic Cooperation and Development – OECD), tổ chức của những nước phồn thịnh với lợi tức cao. Cùng năm đó Nhật đã đứng ra tổ chức Thế Vận Hội. Đây là lần đầu tiên một nước Á Châu là chủ nhà của tổ chức Thế Vận. Một hiện tượng khiến thế giới sửng sốt là kinh tế Nhật đã phát triển trên 10% trong suốt thập niên 1960, và hiện tượng này đã được thế giới gọi là “Phép lạ Nhật Bản”.

a. Phép lạ kinh tế của Nhật:

Để xây dựng nền kinh tế mới, Nhật đã du nhập những ngành khoa học và kỹ thuật tiên tiến đã được phát triển ở Tây Phương từ 2 thập niên trước. Và do ứng dụng những khám phá của Tây Phương, Nhật đã tránh được nhiều phí tổn nghiên cứu và phát triển.
- Năm 1946 năng xuất kỹ nghệ đạt 30% so với năng xuất của những năm 1934-36. Rồi tăng dần: 37.4% năm 1947, 54.6% năm 1948, 71% năm 1949, và 83.6% năm 1950.
- Năm 1950, khi chiến tranh Hàn Quốc (Cao Ly) bùng nổ, con số tăng lên 114.4% năm 1951. Mặc dù mức tiêu thụ tính theo đầu người chỉ đạt 84.8% của mức trước chiến tranh. Năm 1953, năng xuất kỹ nghệ tăng 155.1% và mức tiêu thụ vượt mức tiến chiến. Sau giai đoạn này, giữa 1953-1960, kinh tế phát triển trung bình 9.3% mỗi năm.
- Và năm 1965, ngành kỹ nghệ chế tạo cũng như nền kinh tế nói chung đã tăng gần 4 lần mức tiền chiến, trong khi dân số chỉ tăng từ 70 triệu lên 98 triệu.

Những ngành kỹ nghệ đặc biệt:
- Kỹ nghệ thép: Nhật đứng hàng thứ 3 sau Hoa Kỳ và Liên Sô, từ sản lượng 5 triệu tấn năm 1950, tăng lên 82 triệu tấn năm 1969 với những nhà máy thép tân tiến như bất cứ nhà máy thép nào trên thế giới.
- Kỹ nghệ đóng tàu: Năm 1956, Nhật đứng đầu về kỹ nghệ đóng tàu và năm 1969, chiếm 48.2% trọng tải tàu chở hàng hóa trên thế giới.
- Kỹ nghệ xe hơi: Năm 1950, Nhật sản xuất 1,593 chiếc xe hơi, tới năm 1969 số xe sản xuất tăng tới 2,611,499 chiếc và trở thành nước đứng hàng thứ nhì về xe hơi, chỉ sau Hoa Kỳ.

b. Sản xuất đa diện
Trước chiến tranh sản phẩm của Nhật được đánh đồng với tay nghề non kém và vật liệu rẻ. Đến thời hậu chiến, kỹ nghệ Nhật đã được tập trung vào việc sản xuất những sản phẩm với phẩm chất cao như máy ảnh, đồng hồ, radio, máy truyền hình (đứng thứ nhất thế giới về radio và thứ nhì về TV), những khí cụ chính xác, máy móc điện tử, dụng cụ điện, sản phẩm kỹ nghệ nặng và sản phẩm dầu.

c. Phát triển ngoại thương
Sự phát triển kinh tế của Nhật đặt nặng vào ngoại thương. Năm 1950, hàng hóa xuất cảng trị giá 820 triệu Mỹ Kim và nhập cảng 974 triệu. Tới 1969, hàng xuất cảng lên tới 16.7 tỉ Mỹ kim. Cùng năm đó, 69.3 % hàng xuất cảng là những sản phẩm kim loại, máy móc và hóa chất mà trước thế chiến II chỉ vào khoảng 16%.

Những năm trước chiến tranh hàng dệt chiếm một nửa hàng xuất cảng, tới năm 1969, loại hàng này chỉ còn 14.2%. Còn hàng nhập cảng phần lớn là nguyên liệu, nhiên liệu, thực phẩm và quặng.

Sau chiến tranh, ngoại thương của Nhật tùy thuộc nặng vào Hoa Kỳ. Năm 1946, hàng xuất sang Hoa Kỳ chiếm 65% và nhập chiếm 86%. Đến năm 1969, con số đã giảm còn 31% và 27%, nhưng Hoa Kỳ vẫn còn là đối tác thương mại quan trọng nhất, mặc dù Nhật đã buôn bán với hầu hết các quốc gia trên thế giới.

2. Phát triển nông nghiệp
Với chính sách cải cách ruộng đất và được chính quyền trợ cấp rộng rãi, nông dân đã có thể đưa nông nghiệp đi lên theo kịp với đà tiến của kỹ nghệ. Và cũng do việc kỹ nghệ hóa nhanh, lực lượng lao động trong nông và lâm nghiệp đã giảm xuống còn 18% so với khoảng 50% vào giữa thập niên 1930.

Mặc dù người làm nghề nông ít hơn, nhưng sản lượng nông nghiệp lại gia tăng:
- Trước chiến tranh Nhật phải nhập cảng 20% gạo. Đến nay sản lượng đã dư.
- Năm 1935, số gạo sản xuất được 8,619,000 tấn, nhưng số lượng tiêu thụ lên tới 10,631,000 tấn.
Đến năm 1967, con số thay đổi là 14,453,000 và 12,386,000 tấn.
- Năm 1935 mỗi hectare sản xuất được 2.71 tấn. Đến năm 1969, con số lên tới 4.5 tấn, đạt sản lượng cao nhất trên thế giới. Kỹ nghệ đánh cá cũng phát triển cao, với tổng lượng hàng năm, không kể cá voi, đã tăng từ 3,374,000 tấn năm 1950 lên 7,851,000 tấn năm 1967. Việc săn bắt cá voi đã tăng gấp đôi so với những năm tiền chiến.
(Mikiso Hane. Sđd, tr.363)

Việc gia tăng sản lượng nông nghiệp đã do yếu tố cơ giới hóa toàn diện. Từ thập niên 1960 đến thập niên 1970, nhiều thứ máy dùng trong nông nghiệp đã được sản xuất trong nước như máy cày, bừa ,máy gieo, máy cấy… đã giúp nông dân đỡ vất vả trong mùa trồng tỉa.

- Như máy cày, năm 1955, con số chỉ tới 89,000 chiếc, nhưng đã tăng lên tới 3.5 triệu chiếc năm 1970.
- Máy xịt thuốc bằng tay và những thuốc trừ sâu đã ngăn cản côn trùng phá hại mùa màng.
- Máy đập lúa, máy sấy hạt và xe vận tải nhỏ đã giúp nông dân thu hoạch mùa màng và đưa sản phẩm ra chợ.
Việc cơ giới hóa nông nghiệp cùng với sự phát triển kỹ nghệ và mở rộng thành phố đã giúp nông dân dư thì giờ làm mùa, nên họ đã có thể tìm việc làm thêm ở những thành phố gần. Vì thế lợi tức của nông dân đã gia tăng tới 700% giữa những năm 1960 và 1979. Với mức lợi tức đó, đời sống ở nông thôn đã ngang bằng với thành phố. Họ cũng lái xe Toyota, xây nhà mới với đủ thứ tiện nghi mà kỹ nghệ đã đem lại.
(James L McClain: Sđd, tr. 588)

3. Yếu tố tạo thành sự khôi phục và phát triển
Theo sử gia Mikiso Hane thì sự khôi phục và phát triển kinh tế của Nhật đã do những yếu tố sau:
Về ngoại lực:
a. Sau thế chiến II, các nước tư bản đã chủ trương nền kinh tế mở, theo đó hàng hóa, tư bản và dịch vụ có thể đi qua biên giới các quốc gia một cách tự do. Và để thực hiện chính sách này, các nước Tây Âu và Mỹ đã thiết lập Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (International Money Fund – IMF), và Ngân Hàng Thế Giới (World Bank) để thúc đẩy sự hợp tác tiền tệ quốc tế và trợ giúp sự tái thiết các nền kinh tế hậu chiến. Năm 1952, Hoa Kỳ bảo trợ cho Nhật vào 2 tổ chức này và 3 năm sau vào tổ chức Hiệp Định Tổng Quát Thuế Quan và Mậu Dịch (General Agreement on Tariffs and Trade – GATT) mà mục tiêu của GATT là giảm những hàng rào mậu dịch.
b. Hoa kỳ đã trợ giúp Nhật 2 tỉ Mỹ kim dưới hình thức thực phẩm, phân bón, sản phẩm dầu và vật liệu kỹ nghệ.
c. Trong thập niên 1950 và 1960 Mỹ đã cho phép hàng hóa Nhật vào thị trường Mỹ và mở rộng sự trợ giúp kỹ thuật và tín dụng.
d. Chiến tranh Hàn Quốc (Cao Ly) đã là một lực đẩy. Từ 1950 tới 1953, Nhật trở thành nơi tập trung binh sĩ và kho tiếp liệu cho lực lượng Mỹ chiến đấu ở Hàn quốc và Mỹ đã chi tiêu khoảng 4 tỉ vào đồ tiếp liệu, thiết bị, dịch vụ, và giải trí cho quân đội Mỹ.
e. Từ điều 9 hiến pháp và hiệp ước An Ninh Mỹ- Nhật, Nhật không duy trì lực lượng quân sự và Hoa Kỳ sẽ bảo vệ Nhật, nếu cần. Do đó Nhật chỉ phải chi tiêu khoảng 1% của tổng sản lượng cho quốc phòng, nên đã có thể đầu tư nhiều cho những chương trình phát triển kinh tế.

Về nội lực:
a. Nhật còn cái nền của nửa thế kỷ canh tân và có một lực lượng công nhân có học, có tay nghề vững, có kỷ luật và siêng năng.
b. Trình độ giáo dục được nâng cao sau chiến tranh giúp cho công nhân trung bình thu nhận được kỹ thuật mới một cách dễ dàng. Với kỹ thuật mới, năng xuất lao động mỗi giờ đã tăng 7.2% trong những năm 1953-1962.
c. Xí nghiệp Nhật đã nhanh chóng canh tân những cơ sở kỹ nghệ và kỹ thuật sản xuất bằng cách mượn những kỹ thuật tân tiến của Tây phương. Giữa những năm 1949 và 1963, 2,563 hợp đồng đã được ký với những xí nghiệp Tây phương để đạt được những qui trình có bằng sáng chế và sự trợ giúp kỹ thuật, trong đó 70% hợp đồng đã được ký với các xí nghiệp Mỹ. Từ đó, các công ty Nhật cũng gia tăng đầu tư vào những dự án nghiên cứu của họ.
d. Dân Nhật có truyền thống sống thanh đạm và tiết kiệm, vì thế giữa thập niên 1950 và 1960, họ đã để dành được nhiều, và tiền tiết kiệm này đã được chuyển vào hệ thống ngân hàng để tài trợ doanh nghiệp và đầu tư vào kinh tế ở mức lãi xuất thấp.
e. Năm 1949 và 1953, luật chống độc quyền đuợc nới lỏng, cho phép các công ty kết hợp để có thể cạnh tranh hữu hiệu với các công ty ngoại quốc. Vì thế những tập đoàn Zaibatsu cũ đã được tập hợp lại, mặc dù dưới hình thức lỏng lẻo hơn.
f. Hệ thống công ty nhỏ và trung cũng góp phần lớn vào sự khôi phục kinh tế hậu chiến. Loại doanh nghiệp này có nhiều dạng: nhà buôn bán lẻ, tiệm ăn của gia đình, công ty xây dựng, nhà buôn sỉ khu vực và nhà thầu lại cho những xí nghiệp sản xuất lớn. Những hoạt động qui mô nhỏ chiếm một chỗ quan trọng trong cơ cấu kỹ nghệ Nhật. Vì những nhà thầu lại đã cung cấp cho những công ty lớn như Toyota, Matsushita…, những cơ phận, đồ phụ tùng, linh kiện đạt phẩm chất giúp cho công ty lớn không phải đầu tư vào những nhà máy sản xuất những thứ đó.

Chính quyền cũng ý thức về vai trò của hệ thống công ty nhỏ trong việc phát triển kinh tế và thu dụng nhân công, nên đã trợ giúp nhiều về thuế, về cải thiện năng xuất và tài chánh, như Công Ty Tài Chánh Doanh Nghiệp Nhỏ (Small Business Finance Corporation) đã được thành lập năm 1950 để cung cấp những món vay lãi xuất thấp mua đồ trang bị và canh tân doanh nghiệp.
(Mikiso Hane. đd, tr. 364)

1. Sau cuộc chiến tranh vì tham vọng mở rộng đế quốc, Nhật bại trận và trở thành một nước bị Hoa Kỳ cai trị. Nhưng Yoshida và đảng Dân Chủ Cấp Tiến đã nương theo Chế Độ Chiếm Đóng để tìm sinh lộ cho nước Nhật mà sinh lộ này đã bị chế độ quân phiệt Nhật hủy diệt. Cái may của Nhật là Hoa Kỳ tới cai trị, nhưng không coi Nhật là kẻ thù mà đến để giúp Nhật hủy diệt chế độ quân phiệt và thực hiện những cải cách dân chủ cho Nhật. Từ đó, Yoshida đã có cơ hội để thực hiện chủ trương ông đã ôm ấp từ thập niên 1930 là Nhật phải trở thành cường quốc đại dương và phải liên kết với thế giới Tây Phương trên hướng đó mà sau đệ nhị thế chiến thì Mỹ đã thay Anh đứng đầu thế giới này.

Nhưng thời gian Yoshida làm thủ tướng (7 năm từ 1946 tới 1954) lại rơi vào thời gian khởi đầu chiến tranh lạnh (1947) do Liên Sô lãnh đạo. Vì thế ông phải đối phó với phong trào do Tả Phái, và trí thức Nhật đòi Mỹ rút quân, đòi trung lập như chủ trương của Mac Arthur trong giai đoạn đầu việc chiếm đóng. Ông biết tinh thần và ước nguyện của dân Nhật. Nhưng ông cũng biết Mỹ sợ Nhật ngả về phía Cộng Sản và sẽ kéo dài việc chiếm đóng, nên ông đã thỏa thuận với Mỹ để quân Mỹ ở lại đất Nhật với điều kiện là Mỹ trả lại nền độc lập cho Nhật.

Mặc dù Hiệp Ước An Ninh Mỹ-Nhật đã đem tới cho ông nhiều cay đắng khi báo chí gọi ông là “bù nhìn của Mỹ”, nhưng ông đã giữ chính quyền tới năm 1954, khi Nhật đã lấy lại chủ quyền, kinh tế đã phục hồi và chạy đều với con đường sống ông đã mở cho Nhật. Con đường đó là Nhật phải liên kết với Mỹ và Tây Phương và vận dụng cái dù an ninh của Mỹ và viện trợ Mỹ để phát triển kinh tế với kỹ thuật mới. Từ đó, Nhật đã có thể mở rộng thị trường vào Mỹ Châu, Âu Châu và Á Châu. Mục tiêu này chiến tranh của chế độ quân phiệt đã thất bại. Nhưng trong hòa bình, Yoshida đã thực hiện giấc mộng này cho nước Nhật. Và từ sự thành tựu kinh tế của Nhật, nhiều sử gia viết về Nhật Bản đều có một nhận định là Nhật đã thua trong chiến tranh nhưng thắng trong hòa bình.

Hầu hết những cuốn sử Nhật Bản đều có phần viết về chính sách của Yoshida đã buộc Nhật phải lệ thuộc Mỹ về đường lối ngoại giao trong một thời gian dài. Nhưng sự lệ thuộc về ngoại giao này Yoshida đã chọn để tìm sinh lộ cho nước. Vì ông biết Mỹ cần Nhật trong chiến lược chặn Cộng Sản, còn Nhật cần Mỹ để phát triển. Vì thế ông đã nói với những ngưòi cộng sự thân tín: “Chẳng được gì khi từ bỏ Tây Phương để ủng hộ những nước Á Châu” (ám chỉ mấy quốc gia Trung Lập như Ấn Độ, Thái Lan).

Yêu nước và thực dụng, Yoshida đã mở đường cho Nhật, nhưng ông phải trả giá, vì đụng phải tinh thần dân tộc của dân Nhật. Ông biết như thế, nên ông sợ và Yoshida đã để lộ cái sợ này khi từ Hội Nghị San Francisco năm 1951 trở về nước, được dân chào đón nồng nhiệt từ phi trường và dọc hai bên đường vào thành phố Tokyo, nhưng trong khi vẫy tay chào những người dân và học sinh phất cờ, ông đã khóc. Theo Akira Matsui, viên bí thư đi với ông thì Yoshida khóc không phải vì cảm động mà khóc vì sợ sẽ phải chịu một số phận như ngoại trưởng Jutaro Komara, trở về sau cuộc đàm phán kết thúc chiến tranh với Nga năm 1905. Những người dân tộc cực đoan nghĩ rằng Jutaro đã không khai thác đủ những nhượng bộ của Nga từ sự chiến thắng của Nhật. Vì thế Jutaro Komara đã bị nhạo báng và nhà ông bị ném đá.
(William Chapman, đd, tr. 88)

Theo chúng tôi nghĩ thì sự giải thích đó có thể chỉ đúng một phần, vì Yoshida là một chính khách có bản lãnh và cứng cỏi, nên khó có thể khóc vì sợ bị nhạo báng và ném đá mà có thể ông đã khóc vì biết rằng ông chỉ mới thực hiện được một nửa nguyện vọng của dân Nhật là thu hồi nền độc lập, nhưng vẫn phải để quân Mỹ trên đất Nhật. Hoa Kỳ đã giúp Nhật tái thiết thời hậu chiến, tan nát và đói, nhưng dân Nhật đòi Mỹ phải ra khỏi nước Nhật, mà Yoshida chưa thể hoàn thành được điều này.

Yêu nước và tận lực tìm đường sống tự do và phát triển cho nước, nhưng Yoshida sợ tinh thần dân tộc Nhật. Và đúng như thế, vì sau khi bản Hiệp Ước An Ninh Mỹ- Nhật được công bố, dân Nhật gồm những đảng đối lập, công đoàn, sinh viên, trí thức đã biểu tình dữ dội khắp nơi chống Mỹ và đòi Yoshida từ chức. Mặc dù Yoshida đã lãnh đạo Nhật qua những năm Mỹ chiếm đóng, đã giữ được danh dự cho Nhật trước ông tướng Toàn Quyền Mac Arthur, đã đưa Nhật tới phát triển tự túc và độc lập, nhưng ông phải từ chức năm 1954. Nhưng sau đó và đến nay thì dân Nhật đã tôn ông là một chính khách yêu nước lớn của Nhật.

Sách tham khảo:
1. William Chapman: Inventing Japan. The Making of a Postwar Civilization, Prentice Hall Press, New York, 1991.
2. James L. Mcclain: Japan: A Modern History. W. W. Norton & Company, New York, 2002.
3. Mikiso Hane: Modern Japan: A Historical Survey. Westview Press. Boulder, 1986.
4. Edwin O. Reichauer. Japan: The Story of a Nation. Alfred A. Knopf. New York, 1970.
5. Kenneth Henshall: A History of Japan: From Stone Age to Superpower. Palgrave Macmillan. London, 2004.

Kế hoạch bội tăng thu nhập quốc dân ở Nhật Bản
Tags: japan

2 Comments

Tin liên quan

    Tài chính

    Trung Quốc