Tại sao các Tổ phụ Lập quốc nước Mỹ muốn nợ công thật lớn?


Tổng thống George W. Washington ký trái phiếu trị giá 185.98 USD một món nợ giả định vào năm 1792. Nguồn: Bộ Sưu tập của Bảo tàng Tài chính Mỹ.

Mặc dù các đảng viên Cộng hòa trong Quốc hội tuần này (25/1/2013) đã đồng ý hoãn giới hạn nợ của Mỹ thêm 3 tháng và chặn trước một cuộc đấu (showdown) ngân sách khác, hầu hết các nhà bình luận cho rằng hòa bình sẽ không kéo dài lâu.

Chắc chắn sẽ có một cuộc đấu về các khoản cắt giảm chi tiêu tự động vào ngày 1 tháng 3 (một phần trong thỏa thuận trần nợ công năm ngoái), sau đó là hạn chót lờ mờ hiện ra (looming) về ngừng tài trợ khiến chính phủ liên bang có thể phải đóng cửa (shutdown). Và Chủ tịch Hạ viện (House Speaker) John Boehner đã thề sẽ ngăn cản bất kì sự gia tăng dài hạn nào trong mức trần nợ công mà không có sự giảm chi tiêu tương ứng - trên thực tế, đưa ra triển vọng vỡ nợ như là một cách để kiểm soát nợ quốc gia.

Khi các đảng viên Cộng hòa áp dụng chính sách 'bên miệng hố chiến tranh' (brinkmanship) này, họ tuyên bố nhằm bảo vệ các nguyên tắc được ghi (enshrine) trong Hiến pháp: thuế liên bang thấp, chi tiêu ít, không nợ công.

Tuy nhiên, trên thực tế, các Tổ phụ lập quốc (Founding Fathers) đã cam kết sâu sắc - một số người có thể nói là ám ảnh - với việc ủng hộ nợ quốc gia. Và trong giai đoạn thành lập, mối nguy vỡ nợ không phải đến từ những người bảo thủ mà từ những người mà các nhà lập quốc, ít nhất, thấy là từ phía t cấp tiến (radical left).

Thực tế ít được hiểu rõ này vẫn gây ngạc nhiên là Hiến pháp, không phải hạn chế vay mượn liên bang và thu nhỏ chính phủ, mà thực sự nhằm tạo ra một chính phủ lớn và hùng mạnh có khả năng đánh thuế tất cả những người dân Mỹ để có thể tài trợ nợ liên bang lớn.

Nợ trong nước
Mặc dù nhiều sử gia ngày nay tập trung vào món nợ từ Chiến tranh Cách mạng đối với nước ngoài, loại thuế có sự hấp dẫn (captivate) đối với các nhà lập quốc, và được dùng như là một trong những cột trụ (prod) chính để hình thành quốc gia, đó là thuế trong nước. Nó bao gồm nhiều tầng lớp trái phiếu, được phát hành bi Quốc hội thời chiến và được các nhà đầu tư Mỹ giàu có mua, những người hi vọng tài trợ chiến tranh để đổi lấy các khoản lãi suất 6% được hưởng mà không phải chịu thuế. Nói cách khác, những nhà tư bản tài chính (financier) Mỹ đầu tiên cũng là những người theo chủ nghĩa dân tộc (nationalist) Mỹ.

Cả thanh niên Alexander Hamilton (người hiểu biết nhất - savviest, trong những nhà lập quốc về vấn đề tài chính) và cố vấn của ông là Robert Morris (người phụ trách tài chính của Quốc hội thời chiến và chủ ngân hàng trung ương đầu tiên của Mỹ) tin rằng nợ trong nước, được hậu thuẫn bởi thuế liên bang thu từ tất cả các bang, sẽ thống nhất đất nước. Nó sẽ tập trung sự giàu có, và liên kết (yoke) sự giàu có này với một chính phủ hợp nhất. Mục tiêu là một quốc gia có khả năng thực hiện những dự án vĩ đại - nhằm mục tiêu tối thượng là một cường quốc kinh tế để cạnh tranh được với nền kinh tế Anh quốc.

Các nhà lập quốc nổi tiếng khác cộng tác với Morris và Hamilton trong việc xây dựng tính quốc gia xung quanh nợ công. James Madison, người sau này trở thành đối thủ chính trị của Hamilton vào những năm 1790, là một trong những đồng minh thân cận nhất của ông về vấn đề chủ nghĩa dân tộc trong những năm 1780. Bài luận 'Lập chế độ liên bang số 10' nổi tiếng của Madison tryền đạt viễn cảnh khủng khiếp nếu vỡ nợ nợ trong nước uyên bác như bất kì bài nào từng được Hamilton trình bày.

Trong các bức thư được viết tới George Washington trước Hội nghị Lập hiến, cũng là một người ủng hộ duy trì nợ liên bang thông qua thuế, Madison làm rõ khát vọng chung của những người dân tộc chủ nghĩa nhằm vực dậy (shore up) tín dụng công, bằng cách đưa ra Điều lệ Liên bang (Articles of Confederation) và hình thành nhà nước. Edmund Randolph khai mạc Hội nghị bằng việc giao (charge) các đại biểu việc khôi phục (redress) thất bại của đất nước trong vấn đề tài trợ (không phải là trả nợ) nợ công bằng việc tạo ra chính phủ quốc gia với quyền lực để làm được việc này.

Các nhà cấp tiến kinh tế
Tuy nhiên, vẫn tồn tại vấn đề đối với những người theo chủ nghĩa Tự do (liberal) ngày nay, những người hy vọng nhắc lại lịch sử tài khóa thật sự của nước Mỹ để phản đối lập luận 'bảo thủ hiến pháp' về đe dọa vỡ nợ quốc gia. Mối liên kết khi hình thành đất nước mà thuế liên bang ủng hộ tính quốc gia, và tính quốc gia ủng hộ nợ liên bang, ngược hẳn với phong trào theo chủ nghĩa cộng đồng, chủ nghĩa quân bình cấp tiến mà trong nhiều cách thức là tiền đề trí tuệ của chủ nghĩa tự do khế ước xã hội hiện đại (social-contract liberalism)

Những người cấp tiến của phong trào này - chứng tỏ (evince) trong các tập phim như Cuộc nổi loạn của Shays (Shays' Rebellion) - muốn phá giá các món nợ kiệt quệ (crushing) của giai cấp lái buôn đối với những người bình thường; phá vỡ liên kết giữa những người nắm giữ trái phiếu và chủ ngân hàng khỏi chính phủ; ngăn chặn các vụ tịch thu nhà (foreclosure) tràn lan; điều tiết chặt chẽ hơn nữa việc kinh doanh; và phân tán, chứ không phải là tập trung, sự giàu có của nước Mỹ.

Sự vỡ nợ quốc gia là một triển vọng đáng sợ đối với các nhà lập quốc, nhưng không phải bởi vì họ nghĩ rằng nó sẽ phá hoại các điều kiện kinh tế của người dân bình thường, mà họ biết rằng vỡ nợ sẽ phá hủy (demolish) mối liên minh chính trị giữa sự giàu có và chính phủ mà sự hình thành quốc gia đã dựa trên. Chính những nhà cấp tiến kinh tế ban đầu đó mà nhà nước được hình thành để đàn áp (suppress).

Để thảo luận các vấn đề tài khóa ngày nay một cách hữu ích có lẽ cần (entail) sự thừa nhận của cả hai bên về các yếu tố ít khai trí (less edifying) về thời kỳ lập quốc của chúng ta - và vượt ra ngoài những ảo tưởng (fantasy) về những mong muốn giả định của các Tổ phụ lập quốc.

(Sách mới nhất của tác giả William Hogeland là "Tài chính lập quốc: Nợ, đầu cơ, tịch biên, biểu tình và đàn áp hình thành nước Mỹ như thế nào" - "Founding Finance: How Debt, Speculation, Foreclosures, Protests, and Crackdowns Made Us a Nation.")

Sơn Phạm
Tags: economics

11 Comments

Tin liên quan

    Tài chính

    Trung Quốc