Phương thức quản lý nước sạch ở Singapore
tăng giá đơn vị sử dụng lên rất nhiều sau 40m3 đầu của một tháng,
-> giảm được 10% mức sử dụng nước hộ gia đình kể từ giữa những năm 1990 xuống còn 155 lít mỗi người một ngày trong năm 2011, thấp hơn 4 lần so với một người dân Mỹ trung bình.
----
In his 2011 book, Brahma Chellany reports:
…Singapore has pursued demand management through greater water productivity and efficiency. By plugging system leaks and inefficiencies and raising the price of domestic water, with the tariff and tax rising steeply after the first 40 m3 a month, it managed to reduce household water use by about 10 percent since the mid-1990s to about 155 liters per person per day in 2011. That consumption level is nearly four times lower than that of an average American.
That is from Water: Asia's New Battleground, which is actually one of the most interesting political economy books published in the last few years.
Bài trước: Cách tiết kiệm nhất khi đi máy bay
Tags: idea
Nó tuyên bố như sau: “Quyền của con người đối với nước cho phép TẤT CẢ mọi người có ĐỦ nước sử dụng, AN TOÀN, DỄ TIẾP CẬN, GIÁ CẢ PHẢI CHĂNG cho toàn bộ sử dụng CÁ NHÂN và NỘI ĐỊA"
HRWS bắt buộc mọi chính phủ phải đảm bảo rằng công dân có thể được hưởng nguồn nước và vệ sinh sạch sẽ. Các quốc gia ký kết phải đạt được dần - dần và tôn trọng tất cả các quyền của con người, bao gồm cả nước và vệ sinh. Họ phải làm việc nhanh chóng và hiệu quả để tăng quyền truy cập và cải thiện dịch vụ.
Theo đó, ta thấy rằng mọi hoạt động gây cản trở tiếp cận, gây nguy hiểm đến an toàn nước sạch, phá hủy nguồn nước có chủ ý, cạnh tranh thiếu lành mạnh, đầu cơ, hay tham nhũng chính sách đối với nước sạch để dẫn tới độc quyền - đều có nguy cơ nhận cáo buộc ‘’Chống lại Loài người”.
Các bệnh lây truyền qua đường nước vẫn là một vấn đề lớn, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ước tính rằng họ chịu trách nhiệm cho khoảng 84% bệnh tật toàn cầu ở trẻ em dưới 14 tuổi. Cũng như các tác động tài chính cho hệ thống chăm sóc sức khỏe, điều này cũng gây ra chi phí hậu quả gián tiếp cao cho những người bị ảnh hưởng và gia đình họ.
Chính vì vậy, Chính sách nước sạch tại Việt Nam luôn cần được củng cố. Ai cũng biết rằng nước ta còn nghèo, lạc hậu, tuy nhiên điều đó không có nghĩa rằng chúng ta cứ mãi trì trệ về chính sách. Các bộ chính sách về nước cần phải có và được xây dựng dần dần qua dự thảo. Nước nào cũng làm, chứ không phải chỉ có nước giàu hay Tây quăng vẽ chuyện. Một đất nước phát triển, không chỉ bởi nước đó giàu hay nghèo (Trung Quốc là một ví dụ điển hình, nền kinh tế lớn thứ 2 TG nhưng chưa bao giờ được coi là nước phát triển). Sự ‘’Phát triển” mà ta đang nói đến nằm ở sự chặt chẽ trong chính sách quản lý và hạ tầng.
Chính sách là do con người tạo ra để quản lý xã hội, nó không từ trên trời rơi xuống hay cũng không phải là kiểu câu hỏi ngu ngơ ấm ớ ‘’Thế anh có đưa ra được giải pháp gì không”. Ta đều biết rằng Chính sách không được tạo nên bởi một cá nhân, nó cần được xây dựng dựa trên sự đồng lòng của một xã hội. Mà muốn xã hội có sự đồng lòng, thì họ cần được tiếp cận với nguồn thông tin trung thực, biết thông tin thì mới hiểu vấn đề và có hành động (lựa chọn) đúng đắn. Đó là một quá trình và đừng nên ấm ớ ở bất kì bước nào.
Chính sách nước của Đức khá rõ ràng, nó tóm lại trong tuyên bố sau “Người Đức không cần tiết kiệm nước, người Đức cần sử dụng nó một cách khôn ngoan”. Dự thảo sau đó có bản đầy đủ rất chi tiết về quản lý trữ lượng, bảo vệ, trợ giá, nguyên tắc vận hành, bảo đảm nước uống, bảo đảm lượng nước mặt và nước ngầm, hợp tác và phối hợp trong lưu vực sông, định hướng cạnh tranh, nhà cung cấp, và sự tham gia của toàn xã hội.
Các hệ thống chính sách của nước Đức là nguồn tham khảo quý báu cho VN bởi sự tương đương về dân số, trữ lượng nước ngầm, nước mặt và lượng mưa gần như nhau (trên thực tế VN luôn nhỉnh hơn Đức vì có lượng mưa cao hơn). Nền kinh tế lớn gấp 20 lần VN này, đã chốt giá nước 1.7 eur/mét khối (khoảng 43k VND). Chính sách của Đức thì phổ biến rộng rãi, tra cứu dễ dàng, ai biết tiếng Anh hoặc Đức đều tìm đọc được mà học tập, tìm hiểu.