Người kiến tạo chủ nghĩa tư bản
by David Brooks, NYTimes,

Trong vòng ba năm, ông đã là một doanh nhân thành đạt. Trong vòng một thập kỷ, ông thực sự đã trở thành tham mưu trưởng cho George Washington, tổ chức quân đội cách mạng Mỹ và chiến đấu anh dũng trên chiến trường. Trong vòng hai thập kỷ, ông là một trong những luật sư thành công nhất tại New York và là người viết phần lớn tác phẩm Người liên bang (The Federalist Papers). Trong vòng ba thập kỷ, ông là Bộ trưởng Ngân khố và là người đã hình thành nên các hệ thống tài chính và kinh tế hiện đại là cơ sở cho sức mạnh Mỹ ngày nay. Trong vòng năm thập kỷ, ông đã chết dưới tay của Aaron Burr.
Alexander Hamilton là người cấp tiến nhất, và cũng là người bị lãng quên nhất trong số các tổ phụ lập quốc của nước Mỹ. Ông là người cấp tiến nhất vì
ông thấy được rằng nước Mỹ có thể trở thành một siêu cường tư bản chủ nghĩa, và ông đã tìm ra những thể chế cần có để hiện thực hóa định mệnh này.
ông thấy được rằng nước Mỹ có thể trở thành một siêu cường tư bản chủ nghĩa, và ông đã tìm ra những thể chế cần có để hiện thực hóa định mệnh này.
Ông là người bị lãng quên nhất, bởi vì, đầu tiên ông là "kẻ bon chen" không ngừng nghỉ (và không một ai có quan điểm thuần khiết về tham vọng), thứ hai, ông là người ủng hộ nhiệt thành cho thương mại (và cũng không một ai có quan điểm giản đơn về điều này) và thứ ba, những đối thủ quyết liệt nhất của ông, Thomas Jefferson và John Adams, sống lâu hơn ông nhiều thập kỷ và họ đã làm tất cả mọi thứ có thể để chôn vùi danh tiếng của ông. Vì vậy, không có công trình tưởng niệm nào của Hamilton ở Washington, nhưng ít nhất giờ đây chúng ta đã có một "Alexander Hamilton" bậc thầy và đầy cảm động của Ron Chernow, và là cuốn tiểu sử hay nhất từng được viết về con người này.
Những nhà văn khác, như Forrest McDonald, Liah Greenfeld và Karl-Friedrich Walling, đã mô tả tốt hơn triết lý chính trị của Hamilton, nhưng chưa một ai mô tả Hamilton đầy đủ và ấn tượng như Chernow (người có lẽ là được biết đến nhiều nhất là tác giả của "Titan", cuốn tiểu sử về John D. Rockefeller). Hamilton, giờ đây chúng ta thấy, có mảng tối: tham vọng và lạc quan, nhưng cũng bi quan về bản chất con người và thường thất vọng chán chường. Ông là một người đấu tranh hiện đại, và cũng là một người đàn ông cổ xưa với ham muốn danh dự quý tộc tới mức tự hủy hoại. Ông đã tận tâm với người vợ dũng cảm của mình, nhưng đôi lúc ông đã không thể kiểm soát được, và dễ dàng bị thao túng bởi người tình ngu ngốc đến khó hiểu của mình, Maria Reynolds.
Trong phần lớn cuốn sách này, người đọc cảm thấy kính nể những khả năng đáng kinh ngạc của Hamilton. Cũng có những phần mang nỗi buồn không thể nói thành lời, đặc biệt là khi con trai của Hamilton, Phillip, chết trong một trận quyết đấu, báo trước cái chết của chính Hamilton. Cuối cùng, với chỉ trích gây tổn hại tới Thomas Jefferson, cuốn sách của Chernow sẽ khuấy động thêm một cuộc tranh cãi nữa về Hamilton và Jefferson vốn đã diễn ra hơn 230 năm qua.
Như Chernow lưu ý, cuộc đời của Hamilton là "một trường hợp điển hình về sử dụng thời gian có ích", và Hamilton đã tiếp thu tư tưởng của Plutarch, Bacon và Kinh Thánh và nổi lên trên sân khấu công chúng như là một người viết luận về cuộc Cách mạng Mỹ. "Các quyền thiêng liêng của nhân loại không phải được lục lọi giữa những lớp giấy da cũ kỹ hay những hồ sơ mốc meo" ông viết năm 1775 ở tuổi 20. "Chúng được viết, với tất cả những gì là bản chất con người, như bằng một tia nắng bởi chính bàn tay của thánh thần và không bao giờ có thể bị xóa bỏ hoặc bị che khuất bởi quyền lực của con người."
Trong chiến tranh, tài năng điều hành của ông đã nhanh chóng được thừa nhận, và ông đã được chọn là trợ lý cá nhân cho Washington, bắt đầu mối quan hệ quan trọng nhất trong sự nghiệp của ông. Washington là người kiên định, cao thượng và năng động. Hamilton là người mãnh liệt, hiếu chiến và trí tuệ. Mặc dù hai người không có cảm tình với nhau ngay mà phải mãi về sau -- thực tế là Hamilton đã khước từ sự làm thân của Washington trong thời kỳ Cách mạng Mỹ -- sự vĩ đại của người này sẽ không thể có nếu thiếu người kia.
Tại Thung lũng Forge, Hamilton đã thấy được những điểm yếu căn bản của nước Mỹ, sự thiếu vắng khả năng sản xuất mà một đất nước cần có để tiến hành một cuộc chiến tranh hay tồn tại như một quốc gia độc lập. Đây là cái nhìn sâu sắc định hình sự nghiệp của ông.
Những kết luận đó đã khiến ông khác biệt so với số đông tại Hội nghị Lập hiến ở Philadelphia. Ông ủng hộ quyền lực tập trung và nghi ngờ quần chúng hơn so với hầu hết các đại biểu. Nhưng ông hoàn toàn ủng hộ việc phê chuẩn. Ông đã viết phần của mình trong tác phẩm Người liên bang, đóng góp quan trọng nhất của nước Mỹ cho triết lý chính trị, trong thời gian rảnh rỗi giữa các cuộc gặp với khách hàng xin tư vấn luật.
"Ông luôn phải đấu tranh với nỗi buồn còn sót lại của một người đàn ông đầy ý chí, nỗi u sầu không thể nói ra của một thần đồng", Chernow nhận xét. Trong khi những người khác phẫn nộ với ông hoặc há hốc mồm ngạc nhiên nhìn ông -- Talleyrand coi ông là một trong ba người đàn ông vĩ đại nhất của thời đại -- Hamilton tan nát cõi lòng mình khi có cảm giác ''sự không tương xứng về mặt cá nhân mà thế giới hiếm khi nhìn thấy".
Thành tựu lớn nhất của ông là trở thành Bộ trưởng Ngân khố. Ông đã phải đối mặt với một đất nước yếu kém và bất kham về kinh tế. Ông quốc hữu hoá các khoản nợ, ràng buộc các tiểu bang với nhau và tạo ra các thị trường vốn linh hoạt mà ngày nay là động cơ của chủ nghĩa tư bản thế giới. Ông thực hiện những việc này vào thời kỳ khi nhiều người xung quanh ông có quan điểm hoàn toàn cứng nhắc về kinh tế học. Họ khinh miệt tín dụng, ngân hàng và thị trường chứng khoán, và coi sản xuất là hình thức hoạt động kinh tế kém hiệu quả nhất.
Nhưng Hamilton mơ về một nền kinh tế sôi động, cho phép những nhân tài tham vọng như ông nổi lên và hiện thực hóa trọn vẹn năng lực của họ. Ông tìm cách đập tan các thái ấp quý tộc của các chủ đất miền Nam như Jefferson và thay thế chúng bằng một thị trường đa dạng mà sẽ mở cửa chào đón những người nhập cư và những người thuộc tầng lớp bình dân. Ông cảm thấy sức sống của những con người như vậy sẽ đưa nước Mỹ đến sự vĩ đại. "Mỗi khung cảnh mới, được mở ra cho bản chất bận rộn của con người được khơi dậy và phát huy chính nó, là sự bổ sung một năng lượng mới cho nguồn nỗ lực nói chung", ông viết.
Ông khởi đầu một truyền thống chính trị, vẫn ngủ yên trong chính thời đại của chúng ta, trong đó chính phủ không phản đối sự năng động của thị trường mà chính phủ được tổ chức để gia tăng sự năng động đó. Ngày nay, các cuộc tranh luận giữa những người theo khuynh hướng tự do và những người theo khuynh hướng bảo thủ có xu hướng đưa những người ủng hộ chính phủ chống lại những người ủng hộ thị trường. Ngày nay, nền chính trị của chúng ta bị chi phối bởi các thành phần dân túy đối địch nhau: chủ nghĩa dân túy chống tập đoàn trị của đảng Dân chủ và chủ nghĩa dân túy chống Washington của đảng Cộng hòa. Nhưng Hamilton suy nghĩ theo những phạm trù hoàn toàn khác. Ông lập luận rằng "tự do có thể bị đe dọa bởi sự lạm dụng tự do cũng như sự lạm dụng quyền lực." Ông muốn có một chính phủ hạn chế nhưng tràn đầy năng lượng, sẽ mở các lĩnh vực kinh doanh và đưa ra những hướng đi mới cho những niềm đam mê phổ biến.
Truyền thống hoạt động xã hội, ủng hộ thị trường theo kiểu của Hamilton sau đó được đón nhận bởi Henry Clay và Đảng Whig, và bởi những người Cộng hòa đầu tiên trong thời đại của Lincoln và bởi những người cấp tiếp theo kiểu của Theodore Roosevelt. Nhưng, đáng buồn thay, truyền thống này đã tàn lụi và giờ đây chỉ tồn tại ở dạng sơ khai trong sự nghiệp chính trị của những người như Rudolph Giuliani và John McCain.
Mặc dù những tư tưởng ấy mang tính lịch sử, Hamilton có lẽ không thể vui thích với những năm ông làm việc ở Bộ Ngân khố. Ngày nay, chúng ta nghĩ rằng nền chính trị của chúng ta là bẩn thỉu và đầy chia rẽ đảng phái. Nhưng tranh luận chính trị của chúng ta vẫn giống như một hội nghị chuyên đề lý thuyết thuần khiết so với những cuộc chiến ác liệt những buổi đầu tiên của nền Cộng hòa. Trong khi một người là Bộ trưởng Ngân khố, một người là Ngoại trưởng, Hamilton và Jefferson đã tiến hành những cuộc đấu đá nội bộ với "cường độ gần như bệnh hoạn" như Chernow nhận xét. Thành viên trong phe nhóm của người này viết các bài luận báo nhục mạ người kia. Ngoại trưởng đề xuất Quốc hội ra luật loại bỏ Bộ trưởng Ngân khố. Phe nhóm Jefferson thêu dệt những lời nói dối thô thiển về âm mưu tham ô của phe nhóm Hamilton.
Cuộc chiến này là về nước Mỹ nên trở thành một đất nước như thế nào, và những ai nên là người quản lý. Hamilton ủng hộ các đức hạnh của đô thị và kinh doanh: sức sống, động lực và cạnh tranh. Jefferson mơ ước một đất nước của đồng quê, theo chủ nghĩa quân bình và phân cấp. Hamilton đã thắng, nhưng không giành được tình cảm của hậu thế.
Trong cuộc chiến với Jefferson, Hamilton chiến đấu gần như hết sức mình. Mặc dù mang tính triết lý nhưng Hamilton chưa bao giờ viết các luận thuyết. Ông viết báo chí có tính luận chiến. Ông cần sự sục sôi tranh đấu để ngòi bút được chảy đều. Sau này, khi ông thôi không còn làm việc ở Washington, ông đã đánh mất tất cả cảm giác cân bằng. Ông coi các cuộc đấu chính trị thường xuyên như thể chúng là cuộc chiến trong ngày tận thế (Armageddon). Ông ngày càng trở nên chán chường. "Những nỗi bất hạnh dường như đang xiết chặt quanh chúng ta," ông viết cho vợ mình vào cuối những năm 40 tuổi, "và cả nhiệm vụ và sự bình yên của chúng ta đều đòi hỏi chúng ta phải điều chỉnh bản thân để ứng phó trước các thảm họa, bằng nghị lực của những Kitô hữu."
Mối quan hệ của Hamilton với vợ và gia đình ông là một trong những điều được tiết lộ trong cuốn sách này. Ở nhà ông là một người cha yêu thương, người có thể viết một luận thuyết về cách để tắm cho một đứa trẻ bị ốm, chuyên sâu và cụ thể như khi ông viết về chính sách thuế. Ông hoàn toàn phụ thuộc vào vợ mình, người xuất hiện trong cuốn sách này như một phụ nữ với nghị lực phi thường.
Và Chernow không bao giờ để chúng ta quên rằng Hamilton là một người đàn ông bị khích động bởi khát khao danh dự. Trận đấu quyết đấu tay đôi cuối cùng với Burr bắt đầu không vì một điều gì. Nhưng mối hận thù giữa hai người đàn ông này đã ngày càng leo thang. Chernow phản bác những sử gia cho rằng Hamilton thực sự đã tìm cách tự tử. Bên cạnh những lý do khác, mối gắn kết của ông với gia đình đã quá sâu đậm, và ông biết rằng cái chết của ông sẽ gây ra cho họ nỗi đau khổ sâu sắc. Nhưng Hamilton vẫn đến Weehawken, quyết tâm thực hiện cú bắn của mình, hoàn toàn nhận thức rằng lựa chọn này có thể khiến ông phải trả giá bằng mạng sống của mình.
Bà vợ góa của ông sống lâu hơn ông 50 năm, cố gắng trong vô vọng để hàn gắn uy tín của ông trước các cuộc tấn công của phe Jefferson. Như Chernow nhận biết, cuốn sách này cuối cùng cũng đã hoàn thành sứ mệnh của bà.
Tuấn Minh
NYTimes
Bài trước: Người đa tài
Tags: book
Cuốn sách em giới thiệu anh có 2 bản: 1 do tự mua, 1 được một ông Mỹ tặng vì biết anh hâm mộ Hamilton...
Thông tin rất sai. Tượng Hamilton lừng lững ngay tại tòa US Treasury
Theo tôi trong văn cảnh ở đây nên dịch monument là đài tưởng niệm. Đài tưởng niệm có thể hiểu là một công trình có tính độc lập và tầm vóc tôn vinh cao hơn so với tượng đài thông thường.
vậy monument ở đây chắc phải hiểu theo ý building, structure...?
Đây sẽ là lần đầu tiên hình ảnh một người phụ nữ được in lên tờ tiền giấy USD. Trước đó, đã có 2 người phụ nữ được lựa chọn để in hình lên các đồng tiền xu của Hoa Kỳ, đó là Sacagawea và Susan B. Anthony (đều xuất hiện trên đồng xu 1 USD), tuy nhiên những loại tiền xu này đều nhanh chóng bị đưa ra khỏi lưu thông. Sacagawea là một phụ nữ bản địa, người đã giúp đỡ rất nhiều cho hai nhà thám hiểm nổi tiếng Meriwether Lewis và William Clark trong cuộc thám hiểm trên bộ đầu tiên của người Mỹ đến duyên hải Thái Bình Dương. Susan B. Anthony là thủ lĩnh của phong trào đấu tranh vì quyền bình đẳng cho phụ nữ vào những năm cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, trước khi tu chính án thứ 19 ra đời.
Là con không hợp pháp của một người cha là dân nhập cư Scotland và một người mẹ Liên Bang Tây Ấn (người đã tình cờ được kết hôn với người khác), Alexander Hamilton đã được sinh ra trên đảo Caribbean của Nevis vào ngày 11. Hamilton tự tuyên bố rằng ông đã được sinh ra vào năm 1757, nhưng các tài liệu chính thức từ danh sách của Nevis ghi nhận ông sinh năm 1755. Cuộc tranh luận về sự khác biệt này đã kéo dài hơn 2 thế kỷ, nhưng hầu hết các học giả hiện đại đồng ý rằng Hamilton có khả năng cố ý thay đổi năm sinh của mình. Một thời gian ngắn sau khi Hamilton chào đời, cha của ông là James đã từ bỏ gia đình, sợ rằng người mẹ của đứa con mình sẽ bị buộc chung hai vợ. Trong năm 1768, khi Hamilton đã có khả năng ở tuổi 13, mẹ ông qua đời. Ông nhanh chóng được thuê bởi một công ty xuất nhập khẩu và gây ấn tượng với ông chủ của mình. Năm 1772 họ quyết định gửi Hamilton đến các thuộc địa Mỹ để tiếp tục việc học của mình. Khi đến ngôi nhà mới của mình ở tuổi 15 và nhanh chóng lặn vào trong đấu trường chính trị, Hamilton tục xây dựng những mưu mẹo, và nhận thức tinh khôn của mình để nâng cao danh tiếng của mình như là một thần đồng chính trị.
Mặc dù ông không bao giờ đạt được những chức vụ cao nhất ở đất nước của mình, vài người trong số những người sáng lập của Mỹ chịu ảnh hưởng hệ thống chính trị hơn Alexander Hamilton. Ông là một thành viên của Quốc hội Lục địa, một tác giả của liên bang, một nhà vô địch của Hiến pháp và các thư ký đầu tiên của Kho bạc. Nhưng có rất nhiều điều ở di sản của Hamilton. Trong khi phục vụ tại Kho bạc, Hamilton đã giúp thành lập các ngân hàng quốc gia đầu tiên, U.S Mint và Cutter Revenue Service, một cơ quan thu thuế mà sau này sẽ trở thành US Coast Guard. Vì vậy, tham gia tích cực trong việc phát triển các dịch vụ là Hamilton là bản gốc cuốn sách hướng dẫn truyền thông hải quân ông nghĩ ra và vẫn còn sử dụng vào năm 1962, trong cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba. Một đề xuất mạnh việc sản xuất tại các quốc gia mới, Hamilton và một loạt các nhà đầu tư tư nhân tạo ra các tầng lớp thượng lưu để thiết lập hữu ích Nhà sản xuất, trong đó phát triển một trong những trung tâm công nghiệp đầu tiên tại Hoa Kỳ, nằm ở Paterson, New Jersey. Trong năm 1784 ông thành lập Ngân hàng New York, tổ chức ngân hàng liên tục lâu đời nhất của Mỹ. Và chỉ 7 năm sau đó Hamilton bắt đầu mở rộng, sau đó được gọi là NewYork Evening Post – nó phát triển thành một trong những tờ báo thành công nhất của đất nước: New York Post.
Năm 1791 khi Hamilton đã lập gia đình ông đã gặp một người phụ nữ trẻ người Philadelphia tên là Maria Reynolds, người này nói rằng cô cần tiền mặt bởi vì chồng cô đã để mặc cô với một đứa con gái nhỏ để chăm sóc. Bản thân là một đứa trẻ mồ côi, Hamilton nhanh chóng đồng ý, nhưng sự sắp xếp tài chính của họ sớm biến thành một mối tình phức tạp, cả hai cùng nhau làm nên một cuộc tình kéo dài hơn 3 năm. Tuy nhiên cô và chồng cô, James, đã lên kế hoạch cẩn thận cho vụ việc trong một nỗ lực để tống một số tiền rất lớn từ Bộ trưởng Hamilton, người đã sẵn sàng trả các khoản tiền. Sau khi James Reynolds bị dính líu vào một vụ bê bối tài chính, ông thông báo với các nhà điều tra, một nhóm bao gồm James Monroe và Frederick Muhlenberg rằng Hamilton đã sử dụng vốn của chính phủ. Khi phải đối mặt với điều này, Hamilton thừa nhận vụ việc, nhưng ông cũng nhấn mạnh rằng ông đã sử dụng các quỹ của riêng cá nhân của mình để che đậy nó, thậm chí Monroe cho mọi người thấy bức thư tình của ông cho Maria Reynolds làm bằng chứng. Cho rằng đây là một vấn đề riêng tư, Monroe và Muhlenberg đồng ý không để lộ thông tin này về Hamilton. Tuy nhiên, Monroe đã bán thông tin này cho người bạn thân của ông – Thomas Jefferson, một trong những kẻ thù chính trị của Hamilton. Jefferson truyền lại cho nhà xuất bản James Callender, tờ báo nổi tiếng là bán phát tán những tin đồn chính trị vào thế kỷ 19. Trong năm 1797, sau khi scandal bị phát giác Callender in các dòng chữ Reynolds-Hamilton trong bài báo của mình. Hamilton bị quan tâm nhiều hơn cũng bởi vì thế, những cáo buộc về lạm dụng công quỹ sẽ làm ảnh hưởng đến ông rất nhiều, mặt khác về mặt chính trị các tin tức sẽ ảnh hưởng đến gia đình của ông. Ông đã xuất bản cuốn sách của riêng mình, trong đó ông thừa nhận mối quan hệ ngoài hôn nhân. Hamilton đã được công chúng hoan nghênh vì sự trung thực của mình, nhưng sự nghiệp chính trị của ông vẫn bị ảnh hưởng rất lớn.
Ngày 11 tháng 7 năm 1804, Alexander Hamilton đã bị bắn và bị trọng thương do Phó Tổng thống Aaron Burr tại một trong những cuộc quyết đấu nổi tiếng nhất trong lịch sử nước Mỹ. Đây là lần đầu tiên và cuối cùng cuộc đấu tay đôi của Hamilton. Một trong những nhân vật gây chia rẽ nhất và chiến đấu vì thời đại của mình, ông đã bị thử thách đến gần một chục cuộc quyết đấu trong cuộc sống của mình, nhưng mỗi lần ông đã kiềm chế để tránh bạo lực. Con trai cả của ông là Philip, tuy nhiên, không may mắn như vậy. Năm 1801, sau khi chứng kiến một bài diễn văn tố cáo cha mình, Philip đang ở tuổi 19 phải đối mặt luật sư New York George Eacker và đòi rút lại. Khi Eacker từ chối, một trận đấu được ấn định vào ngày 20 Tháng 11 ở Weehawken, New Jersey. Eacker đã không bị thương, nhưng Philip đã có một cái chết đau đớn vào ngày hôm sau. Sự mất mát đã tàn phá gia đình Hamilton, và nhiều nhà sử học tin rằng nó đã dẫn đến sự miễn cưỡng của Hamilton bắn trực tiếp tại Aaron Burr trong cuộc đấu tay đôi huyền thoại của họ chỉ 3 năm sau đó. Dù ý định của Hamilton là tha đối thủ của mình, nhưng tên kia đã kịp thời bắn vào bụng; ông qua đời vào buổi chiều hôm sau.
~ Alexander Hamilton
Khi thanh kiếm đã được rút ra, cơn cuồng nộ của con người không có giới hạn kiềm chế.
Alexander Hamilton đã đến New York vào năm 1772. Trong thực tế, Hamilton đã làm nhiều hơn để thúc đẩy và đấu tranh cho lợi ích của New York hơn bất kỳ người cha sáng lập khác. Trong nhiều năm, ông và gia đình ông ngày càng tăng về số lượng (có 8 trẻ em ở đó tất cả) sống trong một loạt các ngôi nhà thuê ở Manhattan. Sau khi nghỉ hưu từ dịch vụ của chính phủ trong năm 1795, Hamilton đã mua một mảnh đất 32 mẫu Anh đất ở Harlem hiện đại ngày nay, mà sau đó đã được coi là một vùng ngoại ô nông thôn của New York. Ông đặt tên cho nó là “Grange” trong danh dự của nhà tổ tiên của cha mình ở Scotland. Ngôi nhà được hoàn thành vào năm 1802. Năm 1889 ngôi nhà đã được tặng cho một nhà thờ New York với điều kiện là nó được chuyển từ vị trí ban đầu của nó đến một mảnh mới rộng 250 feet. Trong những năm 1960, sau khi nó bị hư hỏng nghiêm trọng, ngôi nhà đã được đặt dưới sự kiểm soát của các công viên quốc gia, được giao nhiệm vụ với việc tìm kiếm một vị trí thích hợp cho ngôi nhà và khôi phục nó lại vinh quang cũ của nó. Bởi vì cắt giảm ngân sách dốc và sự phản đối của các nhóm cộng đồng, phải mất gần 30 năm để thực hiện cam kết này. Trong năm 2008, hơn 200 năm sau cái chết của Hamilton, Grange đã được đặt vào thang máy thủy lực và chuyển thành công đến gần St. Nicholas Park. Trong tháng 9 năm 2011, ngôi nhà trị giá 14.500.000 đô la, nó mở cửa trở lại cho công chúng.
Hiện tại Mỹ đang lên kế hoạch cho việc lấy ý kiến chân dung người phụ nữ sẽ được in lên tờ tiền 10$ . Quyết định sẽ được đưa ra vào cuối năm nay, sau đó các ban ngành liên quan sẽ phối hợp làm việc với nhau, dự kiến tờ tiền 10$ in hình phụ nữ sẽ được phát hành vào năm 2020, kỉ niệm 100 năm cải cách luật bầu cử ở Mỹ, cho phép phụ nữ được bỏ phiếu. Theo luật, chỉ những người đã khuất mới được sử dụng để in hình lên tiền.
Bộ Tài chính nói với The NY Times rằng bộ trưởng Jack Lew đang tìm kiếm một gương mặt có ảnh hưởng lớn tới lịch sử dân chủ của nước Mỹ. Hồi tháng 3 vừa qua, tổ chức "Women on 20s" ở Mỹ cũng đã dấy lên một phong trào yêu cầu thay thế hình cố Tổng thống Andrew Jackson trên tờ 20$ thành một người phụ nữ, các gương mặt được bình chọn gồm có Rosa Parks, Eleanor Roosevelt, Clara Barton, Harriet Tubman ... Trong cuộc bình chọn này bà Harriet Tubman, một người từng hoạt động dân chủ trong cuộc nội chiến Mỹ những năm 1860, được bầu chọn với 34% số phiếu.
Nếu Harriet Tubman được chọn để in lên tiền thì bà sẽ là người phụ nữ da đen đầu tiên xuất hiện trên tiền ở Mỹ, giống như Barack Obama là tổng thống da đen đầu tiên của xứ cờ hoa.
Khi Abraham Lincoln còn là nghị sĩ bang Illinois, năm 1842, dưới bút danh Rebecca, ông đã viết một loạt bài châm biếm trên một tờ báo của bang về thượng nghị sĩ James Shields. Shields đã viết thư đòi Lincoln rút lại các bài viết và thách Lincoln đấu tay đôi. Là bên bị thách đấu nên Lincoln có quyền lựa chọn vũ khí. Thay vì chọn súng lục, Lincoln chọn vũ khí là đao. Hai người dự kiến sẽ dùng đao đấu với nhau trên một tấm ván hẹp chẳng có nhiều chỗ để tiến lùi. Lợi thế của cuộc đấu rõ ràng sẽ nghiêng về Lincoln vì ông cao hơn, tay dài hơn. Về sau, Lincoln kể lại với một người bạn rằng ông không muốn giết Shields và cũng không muốn bị giết nên đã chọn đao để có thể tước được vũ khí của đối thủ. Nhưng cuộc đấu đã không diễn ra sau khi bạn bè của hai người thuyết phục họ mang vấn đề ra phân xử rõ ràng. Shields sau này trở thành chuẩn tướng dưới chính quyền của Tổng thống Lincoln.
Khác với Tổng thống Lincoln, Andrew Jackson lại là tổng thống Mỹ đam mê đấu tay đôi. Khi còn trẻ, ông nổi tiếng là một tay đấu lão luyện. Vụ đấu súng với một luật sư tên là Charles Dickinson năm 1806 khiến Jackson bị chỉ trích mạnh mẽ. Dickinson nổ súng trước và làm Jackson bị thương nhẹ còn Jackson bắn trượt. Theo luật, cuộc đấu súng phải ngừng tại đó nhưng Jackson đã bắn phát thứ hai giết chết Dickinson. Tuy nhiên, Jackson không bị truy tố về tội giết người và vụ này cũng chẳng ảnh hưởng đến chiến dịch tranh cử tổng thống thành công của ông.
Về sau, thời nội chiến Mỹ, người ta thấy hình thức đấu tay đôi vì “danh dự” là trò xuẩn ngốc vì nó gây đổ máu quá nhiều. Đầu thế kỷ 20, luật cấm đấu tay đôi trở nên phổ biến và được thực thi trên toàn nước Mỹ. Các cuộc đấu tay đôi thưa dần rồi biến mất.
Đó chính là lý do để First Bank of the United States (BUS) ra đời và trở thành một cơ hội đầu tư đầy hứa hẹn. Trong số 10 triệu USD cổ phiếu của BUS, 8 triệu USD được chào bán ra công chúng. Phiên đấu giá đầu tiên (vào tháng 7/1791) đã thành công tốt đẹp với lượng cầu vượt quá nguồn cung chỉ trong 1 giờ đồng hồ.
Đây là thông tin rất tốt lành dành cho Hamilton, bởi hai trụ cột trong hệ thống của ông – ngân hàng và nợ - đã được thiết kế để hỗ trợ lẫn nhau. Để nắm giữ 400 USD cổ phần của BUS, nhà đầu tư phải mua 25 USD chứng chỉ cổ phần (hay còn gọi là scrip). 3/4 số tiền còn lại không được trả bằng tiền mặt mà bằng trái phiếu liên bang. Kế hoạch của Hamilton không chỉ giúp đẩy tăng nhu cầu về nợ chính phủ mà còn giúp ngân hàng có lượng lớn tài sản an toàn. Giá scrip đã tăng từ 25 USD lên đến hơn 300 USD vào tháng 8/1971.
Tuy nhiên, có hai thứ khiến kế hoạch của Hamilton gặp rủi ro. Thứ nhất, một người bạn cũ của Hamilton là William Duer đột ngột "tạo phản".
Biết rằng nhà đầu tư cần trái phiếu liên bang để đổi lấy cổ phần của BUS, Duer và những kẻ đồng lõa cố gắng lũng đoạn thị trường. Để tài trợ cho kế hoạch này, Duer đi vay mượn từ những người bạn giàu có, biển thủ công quỹ đồng thời phát hành các IOU cá nhân.
Tín hiệu lung lay đầu tiên xuất hiện vào tháng 3/1792. BUS bắt đầu cạn kiệt loại tiền tệ mạnh đứng sau các tờ giấy bạc do ngân hàng này phát hành. Nguồn cung tín dụng xẹp xuống nhanh chóng, y hệt như khi chúng phình to. Chỉ trong khoảng thời gian từ cuối tháng 1 đến tháng 3, các khoản vay đã sụt giảm 25%. Vì tín dụng bị thắt chặt, Duer và các cộng sự (vốn hay dùng các khoản nợ mới để hoàn trả những khoản nợ cũ) bắt đầu cảm nhận được những tác động tiêu cực.
Tin đồn về rắc rối mà Duer đang gặp phải cùng với việc BUS thắt chặt tín dụng khiến thị trường Mỹ rơi vào tình trạng hỗn loạn. Giá của nợ chính phủ, cổ phần của BUS cũng như của hàng loạt công ty khác mất gần 25% trong 2 tuần.
Ngày 23/3. Duer bị bắt giam. Tuy nhiên, điều này không thể ngăn chặn khủng hoảng lây lan và các doanh nghiệp bắt đầu sụp đổ. Cơn giận dữ bao trùm thị trường. Quá tức giận, một nhóm nhà đầu tư đã đập phá nhà tù New York, nơi Duer đang bị giam giữ trong bức tường đá.
Hamilton biết rõ điều gì đang xảy ra. Từng học về lịch sử tài chính, ông vẫn nhớ rằng cuộc khủng hoảng năm 1720 ở Pháp đã ám ảnh thị trường tài chính nước này trong nhiều năm. Ông cũng biết rằng Thomas Jefferson đang “chờ sẵn trong cánh gà” để phá hủy tất cả những gì ông đã xây dựng.
Một nghiên cứu được công bố năm 2007 bởi Richard Sylla (giáo sư đến từ ĐH New York) chỉ ra rằng những phản ứng của Hamilton có thể được coi là cuộc cứu trợ ngân hàng đầu tiên của nước Mỹ. Hamilton tấn công trên nhiều mặt trận: sử dụng tiền công quỹ để mua trái phiếu liên bang và nâng giá của chúng, giúp bảo vệ ngân hàng và các nhà đầu cơ. Ông cũng bơm tiền mặt cho những người cho vay đang gặp khó. Hamilton đảm bảo rằng các ngân hàng có tài sản đảm bảo có thể vay mượn nhiều như họ muốn với mức lãi suất 7%.
Mặc dù liều thuốc của Hamilton đã đem lại tác dụng, những tranh cãi về việc làm thế nào để ngăn chặn khủng hoảng trong tương lai bắt đầu nổ ra. Tất cả mọi người đồng ý rằng tài chính là một thứ phù phiếm. Cố gắng bảo vệ những kẻ nghiệp dư khỏi những khoản đầu tư đầy rủi ro, các nhà làm luật đưa ra một loạt lệnh cấm. Tháng 4/1792, đạo luật mới được thông qua, cấm giao dịch hợp đồng tương lai. Đáp lại, một nhóm gồm 24 nhà giao dịch đã tụ họp ở phố Wall, dưới tán cây Buttonwood, và lập nên “câu lạc bộ” giao dịch của riêng họ. Đây chính là tiền thân của Sở giao dịch chứng khoán New York ngày nay.
Gói cứu trợ của Hamilton đã hoạt động hiệu quả. Với niềm tin được hồi phục, thị trường tài chính lại “nở hoa”. Chỉ trong 50 năm, New York đã trở thành một siêu cường trong hệ thống tài chính thế giới: số lượng ngân hàng ở đây cũng như GDP tăng vọt.
Tuy nhiên, Hamilton cũng đã tạo nên một tiền lệ không mấy dễ chịu: các cuộc khủng hoảng ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào hỗ trợ của chính phủ.
“Dân chủ trực tiếp khi được thực thi sẽ là hình thái chính phủ hoàn hảo nhất. Kinh nghiệm đã chứng minh không có quan điểm nào sai lầm hơn thế. Những nền dân chủ cổ đại nơi người dân luôn tự thảo luận không bao giờ sở hữu một hình thái chính phủ tốt đẹp.
Đặc trưng của chính phủ thời kỳ này là bạo quyền với một hình thái dân chủ méo mó.”
Hamilton đã tham gia vào cuộc Cách mạng Mỹ, một sự kiện đem đến cho ông nỗi sợ hãi sâu sắc về sự thống trị của đám đông và khiến ông đặt câu hỏi về độ khôn ngoan của quần chúng sau khi chứng kiến sự thái quá của cách mạng ở thành phố New York (bao gồm việc phải chứng kiến một đám đông cố gắng hành hình tại chỗ hiệu trưởng trường đại học của ông ).
Từ kinh nghiệm của mình, ông tin tưởng vững chắc trong suốt cuộc đời mình rằng các cuộc thảo luận chính trị quan trọng thường cần phải tách rời khỏi công chúng và diễn ra trong bóng tối.
~ Alexander Hamilton
Trong cuốn Các báo cáo, Hanilton cho rằng cạnh tranh từ nước ngoài và sức mạnh của “thói quen” sẽ khiến cho các ngành công nghiệp mới, những ngành sẽ nhanh chóng gặp phải sự cạnh tranh quốc tế (“ngành công nghiệp non trẻ”) khó có thể phát triển được ở Mỹ nếu như các khoản lỗ ban đầu của chúng không được chính phủ trợ giúp. Ông lập luận rằng bảo hộ mậu dịch và vai trò tích cực của nhà nước góp phần thúc đẩy các ngành công nghiệp trong nước, những lập luận này cũng tương tự như những lập luận chúng ta thường gặp ngày nay.
Hamilton đã nhìn nhận rằng an ninh kinh tế của nước Mỹ bị đe dọa bởi các chính sách trọng thương của các quốc gia khác và ông tin rằng các hành động mạnh mẽ của nhà nước là cần thiết nhằm đẩy lùi các đối thủ cạnh tranh kinh tế nước ngoài. Ông ủng hộ việc sử dụng các khoản trợ cấp nhằm làm cho hàng hóa của Mỹ tăng thêm tính cạnh tranh trên thị trường nội địa và nước ngoài, và để bù đắp cho các khoản trợ cấp mà chính phủ các nước khác cũng đang áp dụng cho hàng hóa của họ.
Suốt hơn một thế kỉ (1816 -1945), trong giai đoạn đuổi kịp của mình, Chính phủ Mỹ đã vận dụng những lập luận trên của Hamilton vào thực tế một cách rất tích cực. Trong thời gian này, Mỹ là nước có mức thuế nhập khẩu đánh vào hàng hóa chế tạo cao nhất thế giới. Chính trị gia theo chủ nghĩa dân túy cánh hữu, Pat Buchanan đã nói rằng tự do thương mại là thứ “không phải của Mỹ”.