Quyền lực xoay vần
'Sự báo thù của Địa lý', tác giả Robert D. Kaplan
bài bình của Anne-Marie Slaughter,
ngày 5 tháng 10 năm 2012.
Những người lãng quên địa lý không bao giờ có thể đánh bại nó. Đó là ý
tưởng chủ đạo, lặp đi lặp lại trong cuốn sách mới của Robert D. Kaplan, "Sự báo thù của Địa lý: Những gì bản đồ nói với chúng ta về các xung đột sắp tới và cuộc chiến chống lại định mệnh" ('The Revenge of Geography: What the Map Tells Us About Coming Conflicts and The Battle Against Fate'). Mỗi chương sách bắt đầu bằng việc trình bày các đặc trưng của lãnh thổ theo cách một thầy bói xem các đường chỉ tay, sơ đồ những dãy núi, sông ngòi và đồng bằng như là những yếu tố quyết định định mệnh. Nhưng ngay khi các dòng chữ bắt đầu lảo đảo dưới sức nặng của thuyết tất định địa lý, Kaplan nhanh chóng chuyển hướng, lập luận ủng hộ "thuyết tất định thiên vị mà tất cả chúng ta đều cần" (chữ in nghiêng trong bản gốc). Ông lui về một quan điểm ôn hòa hơn khi cho rằng địa lý là một "bối cảnh" không thể thiếu cho vở kịch của con người về các ý tưởng, ý chí và cơ hội.
tưởng chủ đạo, lặp đi lặp lại trong cuốn sách mới của Robert D. Kaplan, "Sự báo thù của Địa lý: Những gì bản đồ nói với chúng ta về các xung đột sắp tới và cuộc chiến chống lại định mệnh" ('The Revenge of Geography: What the Map Tells Us About Coming Conflicts and The Battle Against Fate'). Mỗi chương sách bắt đầu bằng việc trình bày các đặc trưng của lãnh thổ theo cách một thầy bói xem các đường chỉ tay, sơ đồ những dãy núi, sông ngòi và đồng bằng như là những yếu tố quyết định định mệnh. Nhưng ngay khi các dòng chữ bắt đầu lảo đảo dưới sức nặng của thuyết tất định địa lý, Kaplan nhanh chóng chuyển hướng, lập luận ủng hộ "thuyết tất định thiên vị mà tất cả chúng ta đều cần" (chữ in nghiêng trong bản gốc). Ông lui về một quan điểm ôn hòa hơn khi cho rằng địa lý là một "bối cảnh" không thể thiếu cho vở kịch của con người về các ý tưởng, ý chí và cơ hội.
Kaplan, phóng viên của tờ The Atlantic và cũng là nghiên cứu viên cao cấp tại Trung tâm An ninh mới của Mỹ, đã làm sống lại các nhà tư tưởng thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX như Halford J. Mackinder, tác giả của bài luận "Trục địa lý của lịch sử" vào năm 1904, cho rằng việc kiểm soát "Vùng đất trung tâm" của lục địa Á-Âu sẽ quyết định số phận
của các đế quốc. Tương tự như vậy, các chiến lược gia khác thời đó như Alfred Thayer Mahan và Nicholas J. Spykman có lẽ đã ủng hộ sức mạnh trên biển hơn là sức mạnh trên đất liền, nhưng họ vẫn mô tả lịch sử thế giới như là cuộc đụng độ muôn thuở giữa hai sức mạnh này (Sparta với Athens, Venice với Phổ). Spykman cũng trả lời cho câu hỏi ám ảnh của Mackinder về Vùng đất trung tâm bằng việc tập trung vào châu Âu, Ấn Độ và “Vùng đất ven” Thái Bình Dương."
của các đế quốc. Tương tự như vậy, các chiến lược gia khác thời đó như Alfred Thayer Mahan và Nicholas J. Spykman có lẽ đã ủng hộ sức mạnh trên biển hơn là sức mạnh trên đất liền, nhưng họ vẫn mô tả lịch sử thế giới như là cuộc đụng độ muôn thuở giữa hai sức mạnh này (Sparta với Athens, Venice với Phổ). Spykman cũng trả lời cho câu hỏi ám ảnh của Mackinder về Vùng đất trung tâm bằng việc tập trung vào châu Âu, Ấn Độ và “Vùng đất ven” Thái Bình Dương."
Hầu hết những gì mà các chiến lược gia này đã đề xuất dường như sẽ không chính xác về mặt chính trị trong thời đại ngày nay — chủ nghĩa đế quốc và phân biệt chủng tộc. Các lý thuyết của Mackinder đã được Đức quốc xã áp dụng (theo Kaplan là chiếm dụng). Tuy nhiên, những nhà địa chiến lược này đã có tầm nhìn vượt khỏi những nghi thức ngoại giao và những kỳ vọng pháp luật được ngầm định, để thấy được cuộc đấu tranh khắc nghiệt và lâu dài cho sự sống còn — bộ lạc chống lại bộ lạc, kẻ xâm lược chống lại cư dân bản địa. Điểm mạnh của các lý thuyết này là ở chỗ chúng đánh giá cao cách thức các yếu tố cố định về địa lý và khí hậu định hình các yếu tố nhiều biến động hơn trong sự lựa chọn của con người — câu chuyện mà ngày nay Jared Diamond nói tới trong tác phẩm kinh điển "Súng, Vi trùng và Thép" của ông.
Có lẽ bài kiểm tra tốt nhất về giá trị của chúng là chất lượng phân tích địa chính trị của chính Kaplan ngay sau khi chúng được đặt ra. Ông áp dụng cách tiếp cận địa lý là trên hết của mình đối với các khu vực khác nhau trên thế giới và đưa ra nhiều dự báo làm đảo lộn những hiểu biết thông thường. Ở châu Âu, ông thấy — chính xác, theo quan điểm của tôi — rằng Địa Trung Hải sẽ một lần nữa lại "trở thành người kết nối", liên kết phía nam châu Âu với Bắc Phi như nó đã từng trong thế giới cổ đại, thay vì tiếp tục là đường phân chia giữa các đế quốc hùng mạnh trước đây và những thuộc địa của họ. Các vùng đất của ô liu và nho có khả năng một lần nữa trở thành một cộng đồng kinh tế và văn hóa, được cung cấp năng lượng có lẽ bởi những vùng dự trữ khí tự nhiên và dầu khổng lồ dưới đáy biển phía bắc và phía đông Địa Trung Hải. Tổng quát hơn, quy mô nhân khẩu học và kinh tế tuyệt đối của Liên minh châu Âu, mặc dù có những dự báo ảm đạm về cả hai khía cạnh này, đưa Kaplan tới kết luận rằng đây "sẽ vẫn là một trong những trung tâm hậu công nghiệp lớn của thế giới." Việc chuyển dịch từ Brussels đến Berlin như là trung tâm trọng trường đối với nền chính trị châu Âu, do đó, sẽ có những ý nghĩa toàn cầu.
Tiến về phía đông, Kaplan đưa ra một nhận xét về Nga mà một lần nữa lại làm giảm giá trị của thuyết tất định trong tiêu đề của cuốn sách này. Vladimir Putin và Dmitri Medvedev, ông viết, "không đưa ra được một ý tưởng lạc quan nào, không có bất cứ ý thức hệ nào, và trên thực tế: những gì thuận lợi mà họ có chỉ là địa lý. Và chỉ mỗi thế thì không đủ." Chính vấn đề địa lý đó "dẫn đến một mối quan hệ căng thẳng muôn thuở giữa Nga và Trung Hoa", ngay cả khi cam kết chung về một chính phủ độc tài chuyên chế và về những đặc quyền chủ quyền khiến hai chế độ này tiến lại gần nhau.
Ở Trung Đông và Tây Nam Á, qua lăng kính địa lý, Kaplan phát hiện ra một sự giống nhau không ngờ giữa Iran và Ả Rập Saudi. Ông mô tả cả hai quốc gia này là một tập hợp lỏng lẻo các bộ lạc, dân tộc và các miền đất — các trung tâm thường không thể gắn kết các lãnh địa xa xôi của họ với nhau. Lịch sử Ả Rập Saudi là sự thay đổi nhanh chóng và liên tục giữa "trung tâm Najd" theo chi phái Hồi giáo Wahhabi và "những vùng ngoại vi của Bán đảo Ả Rập." Và Iran "thường giống một đế quốc đa quốc gia vô định hình hơn là một quốc gia độc lập." Hậu tố "istan" là trong tiếng Ba Tư để chỉ "vùng đất", có nghĩa là những nước có chữ "stans" ở Trung Á — Pakistan, Afghanistan, Tajikistan, Uzbekistan và các nước khác — cho thấy đây là một bản đồ được vẽ ở Tehran.
Rời khỏi vùng đất trung tâm, chính Tây bán cầu là nơi bộ khung lý thuyết của Kaplan đưa đến kết quả đáng ngạc nhiên nhất — một sự pha trộn bất thường giữa Samuel Huntington và Fernand Braudel: "Tôi tin rằng, trong tiến trình thế kỷ XXI, châu Mỹ sẽ thực sự nổi lên như một nền văn minh của người Polynesia và người lai Âu–Mỹ, theo hướng từ Bắc tới Nam, từ Canada đến Mexico, chứ không phải là một hòn đảo trải từ đông sang tây chủ yếu của người da sáng màu hơn, nằm trong vùng ôn đới trải dài từ Đại Tây Dương tới Thái Bình Dương". Ông đã đúng khi tập trung vào điểm giao thoa giữa nhân khẩu học và địa lý bán cầu, nhưng áp lực phải hội nhập sâu rộng hơn ở bán cầu này có khả năng đến từ việc cạnh tranh kinh tế với châu Á và châu Âu, cũng như đến từ tình hình nhân khẩu. Và quả thực, Kaplan tự mình thừa nhận một phần quan điểm đó: ông nhìn thấy một thế giới trong đó một "lục địa Á-Âu liên kết và thống nhất" sẽ đòi hỏi phải có một "Bắc Mỹ liên kết và thống nhất" để "tạo thế cân bằng".
Chuyến đi vòng quanh thế giới về địa lý này dựa trên một khái niệm đậm chất thế kỷ XIX về bản đồ là như thế nào. Kaplan định nghĩa bản đồ là "đại diện mang tính không gian về những phân chia ranh giới của nhân loại", và theo định nghĩa này, ông muốn nói rằng đó không chỉ là đại diện về mặt lãnh thổ tự nhiên, mà còn là địa hình. Ông nhìn thế giới như là một bản đồ địa hình nổi, đặc trưng bởi những đỉnh núi nhọn và các thung lũng hẹp vây quanh những quần cư cùng với đó là những thảo nguyên bao la và những sông ngòi rộng đã thúc đẩy và cho phép dân cư di chuyển. Việc ông nhấn mạnh vào "các phân chia ranh giới" của nhân loại gây ấn tượng mạnh, trực tiếp dẫn đến việc ông theo đuổi chủ nghĩa hiện thực trong chính sách đối ngoại. Kaplan cho rằng, về bản chất, nhân loại bị phân chia chứ không phải liên kết với nhau, mặc dù với một cái nhìn khách quan về cảnh quan, chia rẽ hay liên kết đều là có thể. Quan điểm địa chính trị của ông được củng cố bằng việc ông dựa trên học thuyết của Thucydides về ba yếu tố "sợ hãi, tư lợi và danh dự" như là những động lực cơ bản của con người — một đánh giá về bản chất của con người vừa cổ điển (ít nhất là trong thời đại của khoa học thần kinh và tâm lý học nhận thức) và vừa mang cái nhìn của phái mạnh.
Bên cạnh đó, tại sao một bản đồ đích thực là bản đồ về đất đai chứ không phải về con người? Tất cả các loại phương tiện truyền thông và luồng dữ liệu đại chúng lần đầu tiên cho chúng ta thấy và hình dung được các tương tác giữa người với người, lập bản đồ các vị trí của những cảm xúc, mong muốn, nguyện vọng và kết nối. Giao điểm của hàng triệu thế giới nhỏ bé giờ đây có thể được theo dõi và hình dung: các giải ngân hà của con người cũng dày đặc và phức tạp như các ngôi sao trên bầu trời. Chương trình Google Flu Trends (theo dõi xu hướng bệnh cúm của Google) cho phép chúng ta có thể lập bản đồ các điểm bùng phát dịch bệnh bằng cách theo dõi thời gian và địa điểm mà người chớm bị cúm tìm kiếm các triệu chứng trên mạng. Các giao dịch tài chính có thể được lập bản đồ thông qua các ngân hàng; trong thời đại tiền trên điện thoại di động, các giao dịch này sẽ có thể được lập bản đồ thông qua GPS và điện thoại di động.
Kết quả sẽ là một môn học mới của xã hội học nghiên cứu và mô tả các nhóm xã hội (sociography). Kaplan đã tự mình mô tả các siêu thành phố kém phát triển của thế kỷ XXI như là những thành trì to lớn cố gắng trong đơn độc, tạo ra một "địa lý học đô thị mới về những khao khát cá nhân . và mãnh liệt.” Phần này như thể thách thức các lý thuyết nhưng cũng sẽ rất ngắn, đặc biệt là do tấm bản đồ về sự khao khát đó sẽ sớm được thể hiện chi tiết giống như chính những miêu tả về các thành phố.
Đồng thời, chúng ta sẽ ngày càng hiểu những tấm bản đồ tự nhiên của chúng ta là chủ quan tới mức nào. Google Earth và Google Maps cho phép mọi người có thể trở thành những nhà vẽ bản đồ riêng của chính họ, theo đúng nghĩa đen là tự họ có thể đưa họ lên trên tấm bản đồ đó. Kaplan có thể lập luận rằng những mảng màu mô tả những lãnh thổ có chủ quyền trên tấm bản đồ hai chiều không thể diễn tả hết bản thiết kế nguyên gốc của Tạo hóa, nhưng các công dân giờ đây có động lực để làm mờ những ranh giới của các chính phủ bằng việc tự phân chia ranh giới trong cộng đồng của chính họ, trong tưởng tượng và trên thực tế.
Cuối cùng, sự báo thù của địa lý sẽ là sự báo thù của địa lý nhân khẩu học và địa lý tự nhiên: một thế giới ngày càng dân chủ hơn, do chính chúng ta tạo ra.
Anne-Marie Slaughter, giáo sư về chính trị học và quan hệ quốc tế thuộc Đại học Princeton và cũng là giám đốc hoạch định chính sách tại Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ giai đoạn 2009-2011.
Tuấn Minh
NYTimes
Bài trước: Biển động
Tags: book
Chủ thể chính trong hệ thống quốc tế là các quốc gia – dân tộc có chủ quyền trong khi các chủ thể khác như các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, các công ty đa quốc gia, các nhóm hay các cá nhân không có vai trò đáng kể. Về bản chất, hệ thống quan hệ quốc tế là một hệ thống vô chính phủ, không tồn tại một quyền lực đứng trên các quốc gia nhằm điều chỉnh và quản lý mối quan hệ giữa họ với nhau.
Chính vì vậy mục tiêu của các quốc gia là tìm cách nâng cao quyền lực nhằm tự đảm bảo an ninh và sự tồn tại của mình trong hệ thống thông qua việc cố gắng giành được càng nhiều nguồn lực càng tốt. Điều này dẫn tới việc các quốc gia luôn ở trong thế cạnh tranh và đối đầu lẫn nhau (trong nhiều trường hợp dưới hình thức chiến tranh, xung đột vũ trang) nhằm theo đuổi lợi ích quốc gia dưới dạng quyền lực, khiến cho các quốc gia không thể duy trì việc hợp tác một cách lâu dài.
Tư tưởng sức mạnh biển của Mahan nhanh chóng được Tổng thống Mỹ Theodore Roosevelt chấp nhận dùng làm căn cứ xây dựng chính sách ngoại giao. Từ năm 1890, chính phủ Mỹ từ bỏ tư duy đất liền, chuyển hẳn sang tư duy biển. Ngoài việc ra sức xây dựng hải quân, Mỹ còn nắm lấy việc đào và kiểm soát kênh Panama, lập căn cứ hải quân ở vùng biển Ca-ri-bê, đảo Hawaii. Năm 1890, Quốc hội Mỹ thông qua Luật Hải quân. Cuối thế kỷ XIX, sức mạnh hải quân Mỹ từ thứ 12 nhảy lên thứ 3 thế giới; sau Thế chiến I thì mạnh nhất thế giới; sau Thế chiến II Mỹ hoàn toàn kiểm soát Thái Bình Dương. Chính phủ Mỹ từ năm 1798 lập riêng một Bộ Hải quân bên cạnh Bộ Lục quân (lập 1789); sau Thế chiến II kết thúc mới lập Bộ Quốc phòng (1947) thay cho hai bộ kia. Nhờ có lực lượng hải quân mạnh nên nước Mỹ trở thành siêu cường toàn cầu.
Tổng thống F. Roosevelt ca ngợi Mahan là một trong những nhân vật vĩ đại nhất, có ảnh hưởng nhất trong đời sống nước Mỹ. Sử gia Kennan đánh giá Mahan là nhà chiến lược quan trọng nhất của nước Mỹ trong thế kỷ XIX.
Sách của Mahan được nhiều nước dịch và xuất bản, có ảnh hưởng lớn tới chính sách ngoại giao giao của các nước. Tuy là cường quốc biển số 1 hồi ấy nhưng Anh cũng rất sùng bái thuyết Sức mạnh biển của Mahan, chính phủ Anh đã áp dụng thuyết này khi lập kế hoạch mở rộng hải quân.
Hoàng đế Đức William II (kẻ gây ra Thế chiến I) và Bộ trưởng Hải quân Đức Von Tripitz đã nghiên cứu kỹ thuyết sức mạnh biển của Mahan và dốc sức phát triển hải quân đế quốc Đức.
Trong cuốn sách, đầu tiên, tác giả điểm lại lý thuyết địa chính trị của Alfred Thayer Mahan, Halford J. Mackinder và Nicholas J. Spykman. Tác giả nêu ý kiến: ngày nay người ta không còn có thể khẳng định rằng chiều kích địa lý đã không còn ý nghĩa, như có người đã từng khẳng định sau sự kiện Bức tường Berlin sụp đổ. Theo ông, thực ra địa lý chưa từng bị bỏ qua, nhưng dường như nó đã bị lãng quên và ai đó đã đưa ra định đề, theo đó việc cho rằng công nghệ đã xóa bỏ địa lý chỉ là một ý kiến mơ hồ. Tuy nhiên, tác giả cũng cảnh báo về mối nguy của việc suy tôn quá mức vai trò của địa lý,bởi vì tuy nó có ảnh hưởng đến các sự kiện, nhưng theo cách xác suất, tức là không hoàn toàn quyết định được chúng.
Tiếp đó, R. Kaplan nhấn mạnh một nội dung mang tính luận giải độc đáo những đặc điểm của nước Nga và người Nga. Theo ông, do không có những đường biên giới biển ấm và ổn định, nên nước này rơi vào tình thế không yên ổn với các nước láng giềng. Đã mấy trăm năm nay, nước Nga mơ ước sở hữu những cảng biển nước ấm, không bị đóng băng về mùa đông…, mà có lẽ quân cảng Sevastopol cũng nằm trong số những giấc mơ ấy. Một nhận xét mang tính Quyết định luận khác, nhưng cũng đáng được suy ngẫm, là ảnh hưởng sâu sắc của khí hậu lục địa khắc nghiệt và hình thể của lãnh thổ đối với tính khí người Nga và lịch sử nước Nga.
Ở phần tiếp theo, cuốn sách trình bày một vấn đề nóng hổi của thời đại, được nhìn từ cách tiếp cận theo dài hạn, dồn nén trong một chương duy nhất dài 36 trang: “Braudel, Mexico và tầm nhìn chiến lược”. Theo quan điểm này, các lực gây tác động của địa lý hợp sức tạo ra những khuynh hướng lớn trong lịch sử đôi khi diễn ra suốt nhiều thế kỷ. Vận dụng luận thuyết với khái niệm dài hạn, tác giả tìm cách giải thích rằng Hoa Kỳ đang bị đe dọa bởi Mexico và 111 triệu cư dân của nó.
Xuyên suốt cả công trình này, R. Kaplan nhắc nhớ không ngừng và tuyên truyền cho một khái niệm rất kinh điển về địa lý và hoàn cảnh địa lý, bao gồm những sự kết hợp khác nhau của mấy yếu tố chủ chốt là không gian, hình thể địa hình, vị trí theo vĩ độ, và trùm lên tất cả là khung cảnh tự nhiên được thể hiện qua các bản đồ tự nhiên. Đó là hai khái niệm gắn bó chặt chẽ với nhau: vai trò của hoàn cảnh địa lý theo hướng Quyết định luận địa lý và vấn đề địa chính trị thể hiện qua cuộc đấu tranh giành quyền lực giữa các quốc gia, các cường quốc và các vùng địa chính trị.
Dường như tác giả muốn cố kiểm tra xem liệu các thuyết về Vùng đất Trái tim Đại lục Á-Âu (Heartland trong sơ đồ Mackinder), về Miền Duyên hải phía nam Đại lục Á-Âu (Rimland trong sơ đồ Spykman) và về Sức mạnh Biển trong sơ đồ Mahan có còn phù hợp để vận dụng cho những vùng miền địa chính trị chủ chốt của hành tinh chúng ta trong thế kỷ XXI, nhất là gắn với vòng cung nóng bỏng vì khủng hoảng từ vùng đất Maghreb tới tiểu lục địa Ấn Độ và châu Á nói chung.
Không có đom đóm thì xộc xuống bếp nếu thấy có rìu đốn củi thì phán cháu nhà ông bà tuy tiền vận vất vả nhưng hậu vận chắc cũng tầm TBT chứ ko phải tầm thường đâu.