Singapore giành được độc lập như thế nào?

Photo courtesy Leonid Yaitskiy.

Những lời ai điếu từ khắp nơi đang dành cho Lee Kuan Yew, Thủ tướng đầu tiên của Singapore, người mới qua đời sáng sớm ngày 23 tháng 3 (giờ Singapore). Nhưng tầm vóc vĩ đại của ông Lee trái ngược với sự kỳ quặc của thành phố đảo quốc này, cách cực nam của Malaysia bởi một eo biển hẹp, mà ông đã góp phần xây dựng. Chỉ 48km tại điểm rộng nhất, nước này chỉ hơn một nửa không gian năm quận của New York một chút; với 5,5 triệu dân nó thưa dân cư hơn nhiều. Tính trên đầu người, Singapore giàu hơn nhiều so với các nước láng giềng trong khu vực, và là nước duy nhất ở Đông Nam Á, trong đó công dân gốc Hoa chiếm đa số. Điều này xảy ra như thế nào?

Lịch sử hiện đại của Singapore bắt đầu từ những năm đầu thế kỷ mười chín, khi Stamford Raffles, nhà quản lý của Anh có trụ sở ở Java, chọn hòn đảo này để phát triển thành một trạm mậu dịch của Công ty Đông Ấn. Nó là một trong ba thành phố mà sau này hình thành thuộc địa của Vương quốc liên hiệp Anh và Bắc Ireland giàu có được biết đến như là Straits Settlements - Khu định cư Eo biển (hai thành phố khác là Melaka - cách không xa Kuala Lumpur - và Penang, một hòn đảo ngoài khơi bờ biển phía tây bắc của Malaysia). Các thống đốc thuộc địa của Singapore khuyến khích người lao động nhập cư từ các thuộc địa của Vương quốc liên hiệp Anh và Bắc Ireland ở Nam Á; họ cũng chào đón các thương nhân và người lao động gốc Hoa di cư từ Trung Hoa đại lục và trên toàn Đông Nam Á, và những người cuối cùng hình thành nhóm sắc dân lớn nhất của hòn đảo này.

Năm 1959, Vương quốc liên hiệp Anh và Bắc Ireland dành cho Singapore một mức độ tự trị lớn. Ông Lee, lãnh đạo của Đảng Nhân Dân Hành Động, trở thành thủ tướng sau chiến thắng bầu cử vang dội. Nhà lãnh đạo mới của Singapore nghĩ rằng các lợi ích của hòn đảo sẽ được đáp ứng tốt nhất bằng cách hợp nhất với Liên bang Malaya lân cận, một kết hợp các vương quốc Hồi giáo mà mới rũ bỏ sự cai trị của Vương quốc liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Singapore gia nhập liên bang vào năm 1963, mà từ đó về sau được gọi là Malaysia. Nhưng sự sắp xếp này chẳng được bao lâu. Các chính trị gia Singapore tức giận với những quy định ghi trong hiến pháp của Malaysia dành cho đa số sắc dân Malay của liên bang nhiều ưu đãi đặc biệt. Các lãnh đạo Malaysia, về phần mình, cảm thấy rằng đa số người dân chủ yếu gốc Hoa của Singapore đe dọa di sản Malay của đất nước họ, và lo sợ nhà nước mới sẽ bòn rút hết sự thịnh vượng từ đất liền. Những căng thẳng có lẽ là nguyên nhân của những cuộc bạo loạn sắc tộc ở Singapore trong năm 1964, khiến hàng chục người chết. Tháng 8 năm 1965, quốc hội Malaysia bỏ phiếu trục xuất Singapore khỏi liên bang. Ông Lee tuyên bố hòn đảo độc lập, với những giọt nước mắt, chứ không phải niềm vui.

Bất chấp sự ra đời khác thường của nó - và có lẽ chính vì lí do này - Singapore đã trở nên vô cùng thành công. Bằng cách đầu tư vào cảng biển, giờ đây là một trong những cảng bận rộn nhất thế giới, chính phủ đã tận dụng được vị trí chiến lược của Singapore ở lối vào eo biển Malacca. Để bù đắp cho sự thiếu hụt các tài nguyên thiên nhiên khác, nước này mở cửa cho các doanh nghiệp nước ngoài, từ đó mang đến các kỹ năng và nhiều người giàu có (hiện nay khoảng 30% trong số 5,5 triệu cư dân của Singapore là theo giấy phép làm việc tạm thời). Nhưng kích thước và vị trí của Singapore cũng dẫn đến sự hoang tưởng: chính phủ nước này vẫn duy trì chế độ quân dịch bắt buộc và gần đây yêu cầu hầm trú ẩn tránh bom sẽ phải được xây dựng ở nhiều ngôi nhà mới. Những người theo chủ nghĩa tự do dân sự than phiền rằng chính phủ của họ đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trả giá bằng tự do chính trị. Và với tất cả sự thịnh vượng của mình, các công dân "dấu chấm đỏ nhỏ bé" vẫn lo ngại rằng đất nước họ đang bị các nước khác bỏ qua. Trong khi các nhà quan sát trên toàn thế giới tranh luận về di sản của ông Lee, Singapore tỏ ra khó chịu khi rất ít người có thể thấy nó trên bản đồ.

Thành Đạt
The Economist

Tags: economics

2 Comments

Tin liên quan

    Tài chính

    Trung Quốc