Khi Thượng viện điều tra Wall Street

Ferdinand Pecora, chuyên viên tư vấn của Ủy ban Ngân hàng và Tiền tệ tại Thượng viện điều tra JP Morgan & Co trong năm 1933. Nguồn: Getty Images.

Giáo sư Philip Scranton mới có bài ở Bloomberg, kể về việc: vào mùa Xuân năm 1933, nhiều người dân Mỹ đã đổ lỗi cho Wall Street vì sự tàn phá (havoc) tài chính gây ra bởi cuộc Đại Khủng hoảng. Hàng triệu người đã bị mất các khoản đầu tư do phá sản công nghiệp, nhà cửa bị tịch thu, sai lầm của ngân hàng, vỡ nợ trái phiếu và giá chứng khoán sụp đổ.

Thái độ (sentiment) giận dữ đó của công chúng càng sục sôi khi Thượng viện điều tra vụ sụp đổ và hậu quả của nó. Các tài liệu xuất hiện với bằng chứng những thiên vị nội gián và gian lận ‘đã tạo nên một cơn bão phẫn nộ’ (cyclone of outrage) và dẫn đến sự ủng hộ rộng rãi của công chúng đối với chương trình nghị sự tài chính của Tổng thống Franklin D. Roosevelt.

Thượng nghị sĩ đảng Dân chủ Duncan Fletcher, Chủ tịch Ủy ban Ngân hàng và Tiền tệ, lên án một bức điện tín của ngân hàng đầu tư vận động chống lại đạo luật nhằm bảo vệ các nhà đầu tư khỏi những tờ chứng khoán vô giá trị.

Fletcher nói, không ngạc nhiên khi biện pháp này, được gọi là Luật Chứng khoán, lại làm dấy lên ‘sự phản đối kiên quyết nhất từ chính ngành nghề đã tước đoạt (mulct) của người dân khoảng 50 triệu đôla trong mười năm qua.’

Bằng chứng đáng lo ngại đã dần xuất hiện trong nhiều tháng, được tìm ra (dredge up) bởi nhóm nghiên cứu của Cố vấn trưởng của Ủy ban, Ferdinand Pecora. Dựa trên các kết quả tìm được, Chủ tịch Ngân hàng National City Bank, Charles Mitchell, đã phải hổ thẹn (disgrace) từ chức, và phải đối mặt với buộc tội liên bang vì trốn thuế thu nhập.

Pecora, một người di dân Sicilia và là cựu công tố viên New York, thu được $255 một tháng (tương đương $4.463 ngày nay) nhờ đã đưa những mưu đồ (machination) này của các triệu phú ra ánh sáng. Chiến lược thẩm vấn của ông là ‘tiến hành một cách thân thiện, như thể chỉ đơn giản là tò mò vậy’, tờ New York Times đưa tin.

Cách đặt câu hỏi của ông đã làm bối rối (flummox) các nhân vật cấp cao ở Wall Street như Richard Whitney của Sở Giao dịch chứng khoán New York và anh trai ông, George Whitney, của JP Morgan & Co. JP Morgan, Jr đã tập luyện trước cho ngày phải ngồi lên ghế nhân chứng.

Ngày 24 tháng Năm, George Whitney tiết lộ rằng trong năm 1929, khi JP Morgan & Co dự kiến ​​đưa Alleghany Corp lên sàn chứng khoán, 1,25 triệu cổ phiếu đã được âm thầm (privately) cấp cho một nhóm nhà đầu tư với chỉ 20 đôla một cổ phiếu, thấp hơn 4 đôla so với giá chào bán lần đầu. Morgan cũng đã cấp cổ phiếu trước khi lên thị trường của Standard Brands với giá 32 đôla mỗi cổ phiếu, thấp hơn 8 đôla so với giá chào bán lần đầu.

‘Danh sách ưu đãi’ cho các giao dịch này bao gồm những người nổi tiếng trong Chính phủ và các công ty, bao gồm John Raskob, nhà tư bản tài chính và là Chủ tịch Ủy ban Quốc gia đảng Dân chủ, Thượng nghị sĩ bang New Jersey - Hamilton Kean, Edgar Rickard, đối tác kinh doanh của Tổng thống Herbert Hoover, Charles Francis Adams III, Bộ trưởng Hải quân (Secretary of the Navy) Mỹ của Hoover, và William Woodin, Bộ trưởng Tài chính của Roosevelt.

JP Morgan, Jr. cũng thừa nhận một danh sách khác với hơn 80 cán bộ các tập đoàn mà công ty của ông đã thực hiện các khoản cho vay cá nhân từ năm 1927-1932, một phần ba trong số đó vẫn chưa thanh toán (outstanding). Mặc dù danh tính các nhân vật không được công bố, hai trong số các khoản vay chưa thanh toán thuộc về hai chủ tịch của Standard Brands và Johns-Manville, cả hai phát hành lần đầu ra công chúng của JP Morgan & Co.

Khi các hoạt động bất hợp pháp của những nhân vật tai to mặt lớn về tài chính và công nghiệp dần được tiết lộ trong những năm tới, sự phản kháng (antagonism) của người dân Mỹ đối với Wall Street ngày càng thêm dữ dội.

Sơn Phạm
Bloomberg


Tags: economics

Post a Comment

Tin liên quan

    Tài chính

    Trung Quốc