Khi các tiệm bán lẻ hộ gia đình chiến đấu chống lại chuỗi cửa hàng
Trong thời kỳ Đại Khủng hoảng, sự gia tăng của chuỗi cửa hàng đe dọa các tiệm bán lẻ địa phương. Nguồn: Thư viện Quốc hội (Mỹ), Phòng In ấn và Nhiếp ảnh.
Giáo sư Philip Scranton có bài ở Bloomberg, kể về việc đối mặt với thất nghiệp tăng, lương giảm và lợi nhuận tệ hại từ vốn đầu tư, người tiêu dùng thuộc mọi tầng lớp cắt giảm mạnh chi tiêu trong những năm 1930. Các tiệm bán lẻ bị ảnh hưởng.
Doanh thu hàng năm của các cửa tiệm trong năm 1932 đã giảm hơn 40% kể từ năm 1929. Ngược lại, chuỗi cửa hàng có mức giảm nhỏ hơn nhiều, chỉ hơn 10% một chút kể từ năm 1929.
Cạnh tranh từ những năm 1920 vẫn tiếp tục giữa các chủ tiệm bán lẻ và chuỗi cửa hàng ngày càng mở rộng ở cấp vùng hoặc quốc gia, các chuỗi này bán giày dép, rau quả tạp hóa, thuốc lá, quần áo, đồ ăn uống và hàng hóa giá rẻ. Các chủ tiệm nhỏ ngày càng trở nên tuyệt vọng khi phải đối mặt với sự chênh lệch giá cả (chuỗi cửa hàng khi mua nhận được chiết khấu lớn theo số lượng).
Các đồng minh lập pháp của các chủ tiệm bán lẻ đã ban hành một loạt các loại thuế và luật lệ ở cấp bang chống lại chuỗi cửa hàng trong đầu những năm 1920. Mặc dù vậy, tới năm 1929, có hơn 140.000 đại lý của các chuỗi cửa hàng đang hoạt động tại Mỹ. Các chuỗi cửa hàng đã viện tới tòa án để tranh cãi những hạn chế pháp lý này.
Hàng nhập khẩu giá rẻ, bao gồm cả đồ trang sức và đồ chơi, cũng là đối thủ cạnh tranh khác của các tiệm bán lẻ nhỏ. Phong trào 'Người Mỹ mua hàng Mỹ', đối sách chống lại những nỗ lực dân tộc chủ nghĩa của Vương quốc Anh, không mấy thành công, dù được nhà xuất bản William Randolph Hearst khuếch trương. Tạp chí Time lưu ý: 'Khi lòng yêu nước được nâng thành lí do chính để mua một sản phẩm nào đó, (thì) mọi người có ấn tượng rằng, ngoài lòng yêu nước ra, sản phẩm đó không phải là 'hàng tốt nhất để mua'. Các nỗ lực tương tự ở địa phương, như phong trào 'Giữ đôla Ozark ở lại Ozarks', cũng chẳng hiệu quả hơn.
Cuộc Đại Khủng hoảng cũng gây tác động xấu lên chuỗi cửa hàng. Một số đã hăng hái mở rộng trong thập kỷ bùng nổ và giờ bị "què quặt" bởi các hợp đồng thuê (mặt bằng) dài hạn cho các gian hàng mà chẳng có mấy hoạt động. Những chuỗi khác không thể trả thanh toán cho các khoản vay hay tiền mua hàng. McCrory, với 244 cửa hàng năm xu, phải tuyên bố phá sản vào năm 1933, các chuỗi khác National Department Stores, United Cigar Stores, chuỗi cửa hàng sách Brentano và cả các chuỗi khác cũng tương tự.
Mặc dù vậy, các đối thủ cạnh tranh mới tiếp tục xuất hiện. Một trong số đó là siêu thị đồ giá rẻ tự phục vụ Big Bear. Khác xa với những gì người Mỹ hiện nay hiểu về cụm từ 'siêu thị', Big Bear và các liên doanh tương tự 'thành lập trong các gara, nhà máy bỏ không hoặc trong các tòa nhà khác với giá thuê rất thấp.' "Siêu thị" đầu tiên ở khu vực New York của Big Bear là ở trong một nhà máy sản xuất ôtô New Jersey bị bỏ không, tuy nhiên cũng có 200.000 người ghé thăm mỗi tuần. Các doanh nghiệp này đe dọa không chỉ các tiệm bán lẻ hộ gia đình mà cả các chuỗi cửa hàng, vì các chính sách hạ giá họ thiết lập.
Các chuyên gia thực phẩm như V.H. Pelz của công ty General Marketing Counselors Inc. trấn an các tiệm bán lẻ độc lập rằng những đối thủ cạnh tranh giá thấp này sẽ sụp đổ. Ông nói, những "siêu thị" này 'nằm ngoài khu vực mua sắm thông thường để tiết kiệm tiền thuê nhà và sẽ phải thu hút khách hàng trong bán kính rộng hơn để có thể thực hiện hoạt động kinh doanh số lượng lớn của họ'. Nhưng xe ôtô đã biến đổi thói quen mua sắm của người Mỹ thuận lợi cho các chuỗi cửa hàng.
Đáng ngại hơn nữa cho các tiệm bán lẻ nhỏ, khi vào ngày 13 tháng Ba, năm 1933, Tòa án Tối cao Mỹ chấm dứt hiệu lực thuế đánh lên chuỗi cửa hàng của bang Florida, sau vụ kiện của 13 tập đoàn. Tòa án xác định rằng việc gia tăng mức thuế, dựa trên số lượng các gian hàng của một chuỗi, là hành vi phân biệt đối xử. Robert Lyons của Hiệp hội chuỗi cửa hàng quốc gia reo mừng: các cơ quan lập pháp bang 'sẽ không còn có thể đi lại lộn xộn xử phạt tùy tiện được nữa.'
Giờ đây ai sẽ đoái hoài đến những tiệm bé nhỏ?
Sơn Phạm
Bloomberg
Bài trước: Xây dựng đường sắt
Tags: economics
encroach (on, upon): xâm lấn, xâm phạm (lãnh thổ, quyền...)
flounder: sự lúng túng; sự nhầm lẫn (trong việc làm, trong khi nói...); sự đi loạng choạng; sự loạng choạng cố tiến lên; cá bơn
hamstring: cắt gân kheo cho què; (nghĩa bóng) làm què quặt; chặt vây cánh (của ai)
five and dime: chuỗi cửa hàng năm xu
mom and pop: cửa hàng hộ gia đình
radius: bán kính; nan hoa; xương quay
nominal: danh nghĩa; nhỏ bé không đáng kể
crow: reo mừng (khi chiến thắng...); gáy (gà), nói bi bô (trẻ con)
crow over: chiến thắng (quân thù...)
eat crow: chịu nhục
have a crow to pick (plack) with somebody: có chuyện lôi thôi với ai, có chuyện cãi cọ với ai; có chuyện bắt bẻ ai
go hog-wild = behave wildly
Theo quy định hiện hành, hộ kinh doanh cá thể chịu mức thuế khoán được tính như sau: Thuế giá trị gia tăng 1% + thuế thu nhập cá nhân 0.5%, nghĩa là phải đóng 1.5% trên doanh thu, trong khi nếu là doanh nghiệp, họ sẽ phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo thuế suất 20% trên thu nhập, thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân… Trong khi đó, khi “lên đời” thành doanh nghiệp, ít nhất phải có 10 lao động trở lên và bắt buộc phải có kế toán. Như vậy, chắc chắn chi phí chi trả lao động sẽ tăng lên bởi số nhân lực tăng lên. Đây cũng chính là những quy định cứng nhắc khiến họ không muốn lớn thành doanh nghiệp...