Hãy cứu ngành sản xuất X

Các hành lang của quốc hội đông chật những người đại diện cho ngành sản xuất X. Ngành sản xuất X đang có những biểu hiện ốm yếu! Ngành sản xuất X sắp chết! Hãy cứu lấy ngành sản xuất này bằng cách áp dụng thuế quan, bằng cách đặt ra mức giá cao hơn, hay thông qua những khoản trợ cấp. nếu ta để cho nó chết, nhiều lao động sẽ mất việc làm. Những người cho họ thuê nhà và cung cấp hàng hóa dịch vụ cho họ sẽ bị thiệt hại và khủng hoảng sẽ ngày càng lan rộng ra. Nhưng nếu quốc hội ra tay kịp thời và cứu được ngành sản xuất này, nó sẽ tiếp tục tồn tại. Nó sẽ mua máy móc thiết bị từ những ngành sản xuất khác; thêm nhiều người nữa sẽ có việc làm; những người cung cấp hàng hóa dịch vụ cho các lao động của ngành sản xuất này cũng sẽ được hưởng lợi; sự giàu có sẽ ngày càng lan rộng ra.

Đây chỉ là một dạng tổng quát ví dụ cho sự biện minh việc bảo hộ, cứu những ngành sản xuất đang giãy chết của những người hưởng lợi khi đòi hỏi quốc hội bảo hộ cho ngành sản xuất mà họ hưởng lợi.

Để "cứu ngành sản xuất bạc", Quốc hội đã gây ra rất nhiều tổn hại. Một trong những lý do được đưa ra biện hộ là để giúp "phương Đông", song một trong những hậu quả chính sách này đã gây ra trên thực tế là giảm phát ở Trung Quốc, vốn dựa trên chuẩn bạc, khiến Trung Quốc phải từ bỏ chuẩn bạc... Có một cách khác để đạt được cùng mục đích chính trị của những người ủng hộ kế hoạch này mà đòi hỏi ít chi phí và gây ra ít tổn hại hơn rất nhiều: cung cấp những khoản trợ cấp trực tiếp cho những người sở hữu mỏ bạc và các lao động của họ. Thế nhưng Quốc hội và dân chúng sẽ không bao giờ chấp nhận một đề nghị thẳng thừng kiểu này, khi nó không được hỗ trợ bởi những lý lẽ có vẻ cao vời song thực chất là sai lầm về "vai trò quan trọng của bạc trong tiền tệ quốc gia".

Một số người lý luận rằng một ngành sản xuất nào đó phải được tạo ra và duy trì vì các lý do quân sự, hoặc một ngành sản xuất nào đó đang bị ảnh hưởng bởi mức thuế và lương không hợp lý so với các ngành khác, hoặc một nhà cung cấp các hàng hóa hay dịch vụ tối quan trọng (như điện, nước, giao thông, viễn thông...) đang bị bắt buộc phải hoạt động ở mức giá hay phí không mang lại đủ mức lợi nhuận phù hợp. Chúng ta xem xét việc ủng hộ cứu ngành sản xuất X có thực sự đem lại lợi ích cho toàn bộ nền kinh tế?

Có hai loại đề xuất chính thường được đưa ra nhằm cứu vãn ngành sản xuất X. Đề xuất thứ nhất cho rằng ngành sản xuất X đã quá "đông"; vì thế, ta nên tìm cách ngăn các công ty và lao động khác tham gia vào ngành này. Đề xuất thứ hai cho rằng ngành sản xuất X cần được trợ cấp trực tiếp từ chính phủ.

Nếu ngành sản xuất X thực sự đã quá tải so với các ngành sản xuất khác, chúng ta sẽ chẳng cần phải đưa ra biện pháp mang tính bắt buộc hay cưỡng ép nào nhằm ngăn cản việc đưa thêm vốn và lao động vào ngành này. Vốn chưa đầu tư sẽ không chảy vào những ngành sản xuất sắp chết. Những nhà đầu tư sẽ không muốn đầu tư vào những ngành đem lại lợi nhuận thấp và có mức rủi ro cao nhất. Các lao động, nếu họ có sự lựa chọn tốt hơn, cũng chẳng làm việc trong những ngành trả lương thấp nhất với công việc kém ổn định nhất.

Các kế hoạch cứu ngành sản xuất X bằng những khoản trợ cấp trực tiếp từ công quỹ thực ra là sự di chuyển của cải hay lợi nhuận từ những ngành khác sang ngành sản xuất X. Những người nộp thuế sẽ mất đi khoản tiền mà ngành sản xuất X được hưởng. Ưu điểm của các khoản trợ cấp, xét từ phương diện của công chúng là chúng thể hiện rõ bản chất của sự cứu giúp này nhất là khi ta so sánh với việc áp dụng thuế quan bảo hộ, đưa ra mức giá sàn, hoặc các chính sách độc quyền. Ta có thể thấy rõ rằng người nộp thuế và các ngành sản xuất khác sẽ mất đi một khoản bằng chính xác khoản trợ cấp ngành sản xuất X được nhận. Họ phải đóng góp thông qua thuế một phần trợ cấp dành cho ngành sản xuất X. Người tiêu dùng, bởi cũng phải chịu thuế để trợ cấp cho ngành sản xuất X, sẽ bị mất đi một khoản thu nhập tương đương mà đáng lẽ họ có thể dùng để mua những thứ khác. Kết quả là các ngành sản xuất khác sẽ bị thu nhỏ lại để ngành sản xuất X có thể phát triển. Kết quả còn là việc vốn đầu tư và lao động bị đưa vào những ngành sản xuất kém hiệu quả hơn. Lượng của cải tạo ra sẽ giảm. Mức sống bình quân sẽ thấp hơn so với mức nó có thể đạt được trong trường hợp không có những chính sách can thiệp nhằm cứu vãn ngành sản xuất X. Đây chính là các thiệt hại xét trên tầm quốc gia.

Những kết quả này thực ra có thể được nhìn thấy ngay trong những lý luận ủng hộ việc trợ cấp cho ngành sản xuất X. Ngành sản xuất X đang bị thu nhỏ hay sắp phải đóng cửa vì sự cạnh tranh của các ngành khác. Tại sao ta phải dùng các biện pháp can thiệp để duy trì nó? Quan niệm cho rằng trong một nền kinh tế phát triển, mọi ngành sản xuất đều phải phát triển là một sai lầm nghiêm trọng. Để các ngành sản xuất mới có thể đạt được một tốc độ phát triển nhanh, ta thường phải để cho một số ngành công nghiệp cũ chết đi. Khi điều này xảy ra, lượng vốn và lao động cần thiết từ các ngành sản xuất cũ sẽ được chuyển sang cho các ngành sản xuất mới. Nếu ngày xưa chúng ta cố duy trì các ngành sản xuất cũ kỹ của thời kỳ xe ngựa lọc cọc, ta hẳn đã làm chậm lại sự phát triển của các ngành sản xuất mới, ví dụ như sản xuất xe hơi, cùng với các hoạt động kinh doanh khác phụ thuộc vào những ngành này. Chúng ta hẳn đã làm giảm đi lượng của cải được tạo ra và làm chậm lại các tiến bộ kinh tế và khoa học kỹ thuật.

Ngày nay, chúng ta có thể phạm phải các sai lầm tương tự nếu chúng ta cố gắng níu kéo sự tồn tại của một ngành sản xuất nào đó, nhằm bảo vệ lượng vốn đã được đầu tư và những lao động đã được đào tạo trong ngành sản xuất đó. Mặc dù một số người có thể thấy điều này mâu thuẫn, nhưng thực tế là để duy trì một nền kinh tế khỏe mạnh, ta phải để các ngành sản xuất đang tàn lụi chết đi để các ngành sản xuất khác đang phát triển được tiếp tục đầu tư và mở rộng.
P.130 - Hiểu kinh tế qua một bài học

Tác hại của máy móc
Hãy cứu ngành sản xuất X
Robinson Crusoe trên đảo hoang
"Bình ổn" hàng hóa?
Khi chính phủ định giá...
Ảo ảnh lạm phát
Bảo hiểm xã hội
Tags: economics

6 Comments

Tin liên quan

    Tài chính

    Trung Quốc