Thuế!

Al Capone "mặt sẹo", tên trùm tội phạm và găngxtơ khét tiếng vào những năm 1920. chưa từng bị trừng phạt vì những hành vi bạo lực của mình. Nhưng cuối cùng hắn vẫn phải vào tù - vì tội trốn thuế. Hắn đã không chú ý tới câu bình luận của Ben Franklin rằng "trên thế giới này chẳng có gì là chắc chắn, trừ cái chết và thuế".

Khi Franklin nói câu này vào năm 1897, thuế chiếm chưa tới 5% thu nhập trung bình của một người Mỹ, và một trăm năm sau, tình hình vẫn không thay đổi. Song trong suốt thế kỷ 20, thuế đã ngày càng trở nên quan trọng trong đời sống của những người dân bình thường. Ngày nay, tổng tất cả các loại thuế gộp lại - trong đó có thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập công ty, thuế đường sá, thuế tiêu thụ và thuế tài sản - chiếm khoảng một phần ba thu nhập trung bình của một người dân Mỹ. Ở nhiều nước châu Âu, phần thuế trong thu nhập còn cao hơn nữa. P 265

... theo thời gian, phần thu nhập mà chính phủ lấy đi ngày càng lớn. Năm 1902, chính phủ thu 7% tổng thu nhập, năm 1998 là 32%. Nói cách khác, khi thu nhập của nền kinh tế tăng lên, nguồn thu của chính phủ thậm chí còn tăng nhanh hơn. P 266

Một hệ thống thuế có hiệu quả hơn hệ thống thuế khác nếu nó thu được cùng một số tiền với chi phí của người đóng thuế thấp hơn. Chi phí của thuế đối với người đóng thuế là gì? Chi phí hiển nhiên nhất là bản thân khoản thuế phải nộp. Việc chuyển tiền từ người đóng thuế sang chính phủ là một thuộc tính không thể tránh khỏi của hệ thống thuế. Tuy nhiên, thuế cũng tạo ra nhiều chi phí khác mà chính sách thuế được thiết kế tốt cần phải tránh, hay ít nhất cũng phải giảm thiểu:

- Những tổn thất tải trọng phát sinh từ việc thuế làm biến dạng các quyết định của mọi người.

- Những gánh nặng hành chính mà người đóng thuế phải chịu khi họ tuân thủ luật thuế.

TỔN THẤT TẢI TRỌNG

Thuế ảnh hưởng đến quyết định của mọi người. Nếu chính phủ đánh thuế kem, mọi người ăn ít kem hơn và nhiều sữa chua đông lạnh hơn. Nếu chính phủ đánh thuế vào nhà ở, người dân sống trong những căn nhà nhỏ hơn và dành nhiều thu nhập của mình hơn cho những thứ khác. Nếu chính phủ đánh thuế thu nhập từ lao động, mọi người lao động ít hơn và nghỉ ngơi nhiều hơn.

Vì thuế làm biến dạng các kích thích, nên nó tạo ra tổn thất tải trọng... Tổn thất tải trọng là tình trạng phi hiệu quả mà thuế tạo ra khi người dân phân bổ nguồn lực theo các kích thích phát sinh từ thuế, chứ không phải theo chi phí và ích lợi thực sự của hàng hóa và dịch vụ mà họ mua hoặc bán.

Để nhớ lại thuế tạo ra tổn thất tải trọng như thế nào, chúng ta hãy xem xét một ví dụ. Giả sử Joe đánh giá một chiếc bánh pizza là 8 đôla và Jane đánh giá nó là 6 đôla. Nếu không có thuế đánh vào bánh pizza, giá bánh pizza sẽ phản ánh chi phí làm bánh. Nếu giá chiếc bánh pizza bằng 5 đôla, thì cả Joe và Jane đều mua mỗi người một chiếc. Cả hai người tiêu dùng đều thu được mức thặng dư bằng phần giá trị vượt quá số tiền phải trả. Joe có được thặng dư của người tiêu dùng bằng 3 đôla và Jane có thặng dư của người tiêu dùng bằng 1 đôla. Tổng thặng dư của người tiêu dùng bằng 4 đôla.

Bây giờ, nếu chính phủ đánh thuế mỗi chiếc bánh pizza 2 đôla và giá bánh tăng lên 7 đôla. Joe vẫn mua một bánh pizza, nhưng bây giờ anh ta chỉ thu được 1 đôla thặng dư của người tiêu dùng. Jane không mua bánh pizza nữa vì giá của nó cao hơn giá trị mà cô gán cho nó. Chính phủ thu được số thuế là 2 đôla từ chiếc bánh mà Joe mua. Tổng thặng dư của người tiêu dùng giảm 3 đôla (từ 4 đôla xuống 1 đôla). Vì tổng thặng dư giảm nhiều hơn thuế thu được, nên thuế đã tạo ra tổn thất tải trọng. Trong trường hợp này, tổn thất tải trọng bằng 1 đôla.

Cần chú ý rằng tổn thất tải trọng không phát sinh từ Joe, người nộp thuế, mà từ Jane, người không nộp thuế. Mức giảm thặng dư 2 đôla của Joe vừa đúng bằng số tiền chính phủ thu được. Tổn thất tải trọng phát sinh là do việc đánh thuế làm cho Jane thay đổi hành vi. Khi thuế làm tăng giá bánh pizza, phúc lợi của Jane bị giảm và cũng không có khoản thu nào của chính phủ để bù lại khoản tổn thất này. Phần phúc lợi của Jane bị giảm là tổn thất tải trọng của thuế. P 273

NÊN ĐÁNH THUẾ THU NHẬP HAY TIÊU DÙNG?

Chúng ta hãy quan sát trường hợp một người 25 tuổi đang cân nhắc xem có nên tiết kiệm 100 đôla hay không. Nếu anh ta gửi toàn bộ số tiền này vào tài khoản tiết kiệm với lãi suất 8% và không rút ra, thì anh ta sẽ có được 2.172 đôla khi về hưu ở tuổi 65. Nhưng nếu chính phủ đánh thuế bằng một phần tư thu nhập từ lãi suất thu được mỗi năm, thì lãi suất thực tế thu được chỉ còn bằng 6%. Với lãi suất 6%, thì sau 40 năm khoản tiền 100 đôla chỉ tăng lên thành 1.029 đôla, chưa bằng nửa số tiền lẽ ra anh ta thu được nếu không phải đóng thuế. Vì vậy, khi thu nhập từ lãi suất tiết kiệm bị đánh thuế, nó làm cho tiết kiệm kém hấp dẫn hơn.

Một số nhà kinh tế ủng hộ việc loại bỏ những yếu tố cản trở tiết kiệm trong hệ thống thuế hiện nay bằng cách thay đổi cơ sở đánh thuế. Thay cho việc đánh thuế thu nhập mà mọi người kiếm được, chính phủ nên đánh thuế vào số tiền mà mọi người chi tiêu. Theo đề xuất này, tiền tiết kiệm không bị đánh thuế cho tới khi nó được tiêu. Hệ thống thay thế này, gọi là thuế tiêu dùng, không làm biến dạng quyết định tiết kiệm của mọi người. P 274

GÁNH NẶNG HÀNH CHÍNH

Nhiều người đóng thuế, đặc biệt những người trong diện đóng thuế cao, thuê luật sư và kế toán thuế để giúp họ xử lý vấn đề thuế. Những chuyên gia về luật thuế phức tạp này điền vào tờ kê khai thuế cho khách hàng của họ và giúp khách hàng thu xếp công việc sao cho có thể giảm bớt số thuế phải nộp. Đây là hành động tránh thuế hợp pháp, khác với việc trốn thuế bất hợp pháp.

Những người chỉ trích hệ thống thuế của chúng ta nói rằng các nhà tư vấn thuế trên giúp khách hàng của họ trốn thuế bằng cách lạm dụng một số điều khoản chi tiết trong luật thuế, thường được gọi là "lỗ hổng". Trong nhiều trường hợp, những lỗ hổng này là sai sót trong quá trình lập pháp. Chúng phát sinh  từ những điểm không rõ ràng hay thiếu sót trong luật thuế. Nhưng thông thường chúng có nguyên nhân ở việc Quốc hội muốn dành ưu đãi đặc biệt cho một số loại hành vi cụ thể. Ví dụ, Luật thuế liên bang Mỹ dành ưu đãi cho các nhà đầu tư vào trái phiếu thành phố, vì Quốc hội muốn tạo điều kiện cho chính quyền bang và địa phương vay tiền dễ dàng hơn. Điều khoản này có lợi cho các bang và địa phương trong một chừng mực nhất định; nó có lợi cho những người đóng thuế có thu nhập cao ở một mức độ nào đó. Quốc hội, cơ quan làm ra chính sách thuế biết phần lớn các lỗ hổng, nhưng cái tưởng chừng như một lỗ hổng đối với người nộp thuế này lại có thể là một cách giảm thuế có thể chấp nhận được với người khác.
... Có thể cắt giảm gánh nặng hành chính của hệ thống thuế chỉ bằng cách đơn giản hóa luật thuế. Tuy vậy, việc đơn giản hóa thường gặp phải những khó khăn về mặt chính trị. Phần lớn mọi người sẵn sàng đơn giản hóa luật thuế bằng cách loại bỏ những lỗ hổng làm lợi cho người khác, nhưng ít người sẵn sàng từ bỏ những lỗ hổng có lợi cho mình. Xét cho cùng, tính chất phức tạp của luật thuế có nguyên nhân ở quá trình chính trị, trong đó những người đóng thuế có lợi ích riêng vận động cho mục đích của họ. P 275

THUẾ SUẤT CẬN BIÊN VÀ THUẾ SUẤT BÌNH QUÂN

Cả thuế suất cận biên và thuế suất bình quân đều chứa đựng những thông tin hữu ích. Nếu chúng ta tìm cách đánh giá chi phí đối với một người đóng thuế, thì thuế suất bình quân phù hợp hơn, bởi vì nó cho biết phần thu nhập dùng để đóng thuế. Ngược lại, nếu chúng ta muốn đánh giá xem hệ thống thuế làm sai lệch động cơ hành động của con người đến mức độ nào, thì thuế suất cận biên là chỉ tiêu có ý nghĩa hơn. Một trong Mười Nguyên lý của kinh tế học là: con người duy lý suy nghĩ ở điểm cận biên. Hệ quả tất yếu của nguyên tắc này là thuế suất cận biên phản ánh mức độ cản trở mọi người làm việc chăm chỉ của hệ thống thuế. Vì vậy, thuế suất cận biên quyết định tổn thất tải trọng của thuế thu nhập. P 276
Tags: economics

1 Comments

Tin liên quan

    Tài chính

    Trung Quốc