Từ bỏ thói quen: Tương lai của dầu mỏ

James' Corner*, Katoomba 1930. Photo courtesy Blue Mountains Local Studies.

Lượng dầu thế giới sử dụng đang đến đỉnh điểm, theo Henry Tricks. Nhưng đừng mong đợi nó sớm kết thúc.

Tại thời điểm bước sang thế kỷ 20, vấn đề môi trường bốc mùi nhất đối với các thành phố lớn trên thế giới không phải là những khu nhà ổ chuột, nước thải hoặc muội than; mà đó là phân ngựa. Tại London vào năm 1900, ước tính có khoảng 300.000 con ngựa để kéo xe thường và xe tầng, cả xe đẩy lẫn xe thồ và xe chở hàng, để lại một đám bùn lầy toàn phân phía sau. Các công dân của New York, nơi có khoảng 100.000 con ngựa, cũng phải chịu tai họa tương tự; họ đã phải xoay sở trong con sông bùn khi trời mưa, và những đống phân lớn đầy ruồi khi trời nắng. Tại hội nghị quy hoạch đô thị quốc tế đầu tiên được tổ chức tại New York vào năm 1898, phân ngựa đứng đầu trong chương trình nghị sự. Không tìm được giải pháp nào, các đại biểu thất vọng bỏ về sớm một tuần.

Tuy nhiên, một thập kỷ sau đó vấn đề phân bị cuốn trôi đi bởi bàn tay vô hình của thị trường. Henry Ford sản xuất mẫu xe T (Model T) đầu tiên, vừa có giá rẻ, vừa nhanh chóng lại sạch sẽ. Đến năm 1912 xe hơi ở New York đã nhiều hơn ngựa, và vào năm 1917, xe công cộng ngựa kéo cuối cùng đã về hưu ở Manhattan. Thời điểm đó đánh dấu thời đại của dầu đã đến.

Thời đại ấy là một quá trình tiến bộ nhanh chóng liên tục tăng tốc. Nếu than đem đến cuộc cách mạng công nghiệp, dầu đã thắp nhiên liệu cho động cơ đốt trong, hàng không và cả ý thức hệ của thế kỷ 20 rằng khả năng của con người là vô hạn; nó đã đưa con người bay lên Mặt trăng và xa hơn nữa. Các sản phẩm làm thay đổi cuộc sống — từ son môi đến máy nghe đĩa CD, từ mũ bảo hiểm xe máy đến aspirin — đều chứa hóa dầu. Máy kéo và phân bón mang lại lương thực rẻ hơn cho thế giới, và các sản phẩm nhựa dùng để đóng gói, là kết quả từ các sản phẩm dầu mỏ.

Dầu mỏ đã thay đổi lịch sử. Suốt một trăm năm qua, bao cuộc chiến tranh dầu mỏ, cú sốc dầu lửa và sự cố tràn dầu đã liên tiếp xảy ra. Và ngay cả trong thế kỷ 21 sự thống trị của dầu vẫn còn vững chắc. Mọi thứ khác có thể đều đã tăng tốc, nhưng quy luật của thị trường năng lượng là việc thay đổi hỗn hợp nhiên liệu vẫn là một quá trình chậm chạp (xem biểu đồ). Gần cao điểm dầu tại thời điểm lệnh cấm vận dầu mỏ Ả Rập năm 1973, dầu chiếm 46% nguồn cung cấp năng lượng toàn cầu. Năm 2014, nó vẫn chiếm thị phần 31%, so với 29% đối với than và 21% đối với khí thiên nhiên. Các đối thủ của nhiên liệu hóa thạch đang phát triển nhanh chóng, như năng lượng gió, năng lượng mặt trời và địa nhiệt, tổng cộng chiếm ít hơn 1%.

Chọn đúng người đúng việc
Tuy thế, quá trình chuyển đổi từ sức ngựa sang mã lực, một thuật ngữ tạo ra bởi Eric Morris của Đại học Clemson, Nam Carolina, là một thí dụ hữu ích cho thời đại chúng ta. Một trăm năm trước đây dầu được xem như vị cứu tinh của môi trường. Giờ đây, các sản phẩm của dầu đang ngày càng cho thấy vấn đề như phân ngựa ngày trước: mối đe dọa với sức khỏe cộng đồng và môi trường.

Với tất cả sức mạnh bao năm qua, dầu mỏ có thể phải đối mặt với thời điểm xuất hiện Model T của nó. Mối nguy hiểm không phải là sự sụp đổ tức thì trong nhu cầu mà là sự khởi đầu của một thay đổi trong chiến lược đầu tư đi từ việc tìm kiếm nguồn dầu mới sang tìm kiếm giải pháp thay thế cho dầu. Chất xúc tác trước mắt chính là phản ứng toàn cầu đối với biến đổi khí hậu. Thỏa thuận ở Paris năm ngoái đem đến cơ hội 50/50 cho việc giữ mức ấm lên toàn cầu ít hơn 2ºC trên mức nhiệt độ tại thời kỳ trước cách mạng công nghiệp (thời kỳ tiền công nghiệp), và có thể hạn chế ở mức 1.5ºC, được một số người coi như lời tuyên chiến đối với các loại nhiên liệu hóa thạch.

Thỏa thuận đó đã bị nghi ngờ với việc bầu Donald Trump, người bác bỏ biến đổi khí hậu, coi đó là một "trò lừa bịp", là tổng thống tiếp theo của nước Mỹ. Nhưng nếu những thị trường tiêu dùng năng lượng lớn như Liên minh châu Âu, Trung Quốc và Ấn Độ vẫn cam kết kiềm chế sự nóng lên toàn cầu, tất cả các loại nhiên liệu hóa thạch sẽ bị ảnh hưởng. Cơ quan Năng lượng Quốc tế cho biết rằng để đến gần với mục tiêu 2ºC, nhu cầu dầu mỏ sẽ phải lên đỉnh cao cân bằng sản lượng (peak oil) vào năm 2020 ở mức 93 triệu thùng mỗi ngày, chỉ trên mức hiện nay một chút. Việc sử dụng dầu trong vận tải hành khách và hàng hóa sẽ giảm trong vòng 25 năm tới, sẽ được thay thế bằng điện, khí đốt tự nhiên và nhiên liệu sinh học. Không nước nào trong số các bên ký hiệp định Paris cam kết hành động mạnh bạo như vậy, nhưng chi phí của năng lượng tái tạo và pin đã giảm xuống, một quá trình chuyển đổi như vậy dường như là điều không thể tránh khỏi. "Có tin vào biến đổi khí hậu hay không, thì sự chuyển dịch không thể ngăn cản từ than đá và dầu mỏ sang nhiên liệu có mức carbon thấp hơn đang diễn ra, rồi cuối cùng sẽ chấm dứt thời đại dầu mỏ", công ty đầu tư nghiên cứu Bernstein cho biết.

Không mấy ai nghi ngờ rằng nhiên liệu hóa thạch sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất từ quá trình chuyển đổi này là than đá. Năm 2014, than đá thải ra 46% lượng khí thải CO2 do đốt nhiên liệu trên toàn thế giới, so với 34% đối với dầu và 20% đối với khí thiên nhiên. Khí thiên nhiên có khả năng là nhiên liệu hóa thạch cuối cùng vẫn đứng vững, vì độ sạch tương đối của nó. Nhiều người coi điện chạy bằng khí và năng lượng tái tạo là bước đầu tiên trong một cuộc đại tu hệ thống năng lượng toàn cầu.

Báo cáo đặc biệt này sẽ tập trung vào dầu mỏ bởi vì nó là thành phần lớn nhất của ngành công nghiệp năng lượng và là hàng hóa được giao dịch nhiều nhất trên thế giới, với khoảng 1,5 nghìn tỷ USD giá trị xuất khẩu hàng năm. Một nửa trong số mười công ty đứng đầu được liệt kê trong Global Fortune 500 sản xuất dầu mỏ, và tất cả các công ty này vẫn chỉ là chú lùn nếu so với tập đoàn dầu mỏ Saudi Aramco chưa được niêm yết trên thị trường. Dầu mỏ cung cấp tài chính cho các quốc gia mang lại ổn định cho địa chính trị toàn cầu cũng như những quốc gia đang trong sự kìm kẹp của độc tài và khủng bố. Và các sản phẩm dầu cung cấp nhiên liệu cho 93% vận tải trên toàn thế giới, do đó, giá dầu ảnh hưởng đến hầu như tất cả mọi người.

Kể từ khi giá dầu thô bắt đầu sụt giảm mạnh trong năm 2014, thế giới đã có một cái nhìn thoáng qua về sự tàn phá có thể xảy ra khi ngành công nghiệp dầu suy thoái. Khi giá dầu giảm xuống dưới 30 USD một thùng trong tháng 1 năm nay, thị trường chứng khoán dự đoán giảm mạnh, các nhà sản xuất dầu mỏ như Venezuela và Nigeria bị vỡ ngân sách và bất ổn xã hội, đồng thời một số công ty đá phiến Mỹ đã suýt rơi vào phá sản. Nhưng cũng vẫn có những tác động tích cực. Ả Rập Saudi đã bắt đầu lên kế hoạch cho một nền kinh tế ít phụ thuộc hơn vào dầu mỏ, và công bố sẽ tư nhân hóa một phần Aramco. Các nhà sản xuất Trung Đông khác đã nhiệt tình đón nhận năng lượng mặt trời. Một số quốc gia tiêu thụ dầu mỏ đã lợi dụng giá dầu thấp để cắt giảm trợ cấp nhiên liệu.

Các công ty dầu mỏ phương Tây đã phải vật lộn suốt cuộc khủng hoảng cùng với gánh nặng mới khi những lo ngại về sự nóng lên toàn cầu trở thành xu thế chung. Ở Mỹ, Ủy ban Chứng khoán và Hối đoái và văn phòng công tố New York đang điều tra Exxon Mobil, tập đoàn dầu khí tư nhân lớn nhất thế giới, về vấn đề liệu tập đoàn này đã tiết lộ đầy đủ những rủi ro mà các biện pháp giảm thiểu biến đổi khí hậu có thể gây ra cho những mỏ dầu dự trữ rộng lớn của công ty. Cổ đông ở cả Mỹ và châu Âu đang gây sức ép rất lớn lên các tập đoàn dầu khí để làm rõ cách thức họ sẽ quản lý các doanh nghiệp của mình nếu quy định biến đổi khí hậu buộc thế giới phải tự cai nghiện dầu. Mark Carney, thống đốc Ngân hàng Trung ương Anh, đã đưa ra cảnh báo rằng quá trình chuyển đổi năng lượng có thể gây căng thẳng nghiêm trọng cho sự ổn định tài chính, và có đến 80% trữ lượng nhiên liệu hóa thạch có thể bị bỏ phí. Khẩu hiệu của ngành công nghiệp dầu, "Khoan, khoan nữa, khoan mãi!" bây giờ gặp một phản ứng chói tai: "Hãy để nó yên trong lòng đất!"

Đỉnh cao nào?
Điều này đánh dấu một sự thay đổi rất lớn. Trong suốt thời đại dầu mỏ, mối quan tâm lớn nhất là về an ninh các nguồn cung năng lượng. Các quốc gia thực dân hùng mạnh gây chiến tranh để tiếp cận dầu mỏ. Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) thành lập liên minh (cartel) gồm các nhà sản xuất dầu để bảo vệ các mỏ dầu và đẩy giá lên cao. Trong thế kỷ 20, nỗi sợ hãi canh cánh là "cao điểm dầu", khi nguồn cung sẽ bắt đầu giảm dần. Nhưng giờ đây, theo ông Daniel Yergin, một sử gia về dầu mỏ từng đạt giải Pulitzer, cho biết: "Có sự thay đổi đi từ câu hỏi ‘khi nào chúng ta sẽ hết dầu? ' sang 'chúng ta sẽ tiếp tục sử dụng dầu trong bao lâu nữa?' Đối với "cao điểm dầu", giờ đây được hiểu là "cao điểm nhu cầu."

Dầu nhiên liệu cho phương tiện chuyên chở hàng hóa hạng nặng, máy bay và tàu thuyền, và để sản xuất nhựa, sẽ còn cần thiết trong nhiều năm nữa. Nhưng từ Mỹ sang Trung Quốc, tiêu chuẩn khí thải đối với phương tiện giao thông đã trở nên nghiêm ngặt hơn, đòi hỏi đi quãng đường dài hơn với ít nhiên liệu hơn. Ô nhiễm không khí và ùn tắc tại các thành phố lớn đang khiến các nước như Trung Quốc và Ấn Độ thúc đẩy tìm kiếm giải pháp thay thế cho nhiên liệu và dầu diesel để làm nhiên liệu vận chuyển. Hãng xe Tesla, Chevrolet và Nissan đã công bố kế hoạch kinh doanh xe điện đường trường, cùng với các khoản trợ cấp, với giá khoảng 30.000 USD, để xe điện có giá phải chăng hơn. Và trên toàn thế giới vai trò của năng lượng trong tăng trưởng GDP đang giảm dần.

Các nhà phân tích tin vào hiệp định Paris sẽ đánh dấu một bước ngoặt trong nỗ lực toàn cầu để giảm lượng khí thải CO2 cho rằng tiêu thụ dầu toàn cầu có thể bắt đầu giảm dần vào đầu những năm 2020. Điều đó có nghĩa là các công ty sẽ phải tập trung hoàn toàn vào những mỏ dầu dễ tiếp cận như ở Trung Đông và vùng dầu đá phiến ở Mỹ, chứ không phải các dự án phức tạp đắt tiền cần thời gian hoàn vốn dài, chẳng hạn như ở Bắc Cực, cát dầu ở Canada hay sâu dưới lòng đại dương.

Tuy nhiên, nhiều người trong ngành công nghiệp bác bỏ ý kiến về cao điểm nhu cầu. Họ không tin rằng các chính phủ có quyết tâm chính trị để thực hiện các mục tiêu khí hậu của theo tốc độ Hiệp định Paris dự kiến. Ở Mỹ họ chế giễu ý tưởng rằng một nước được xây dựng xung quanh văn hóa ôtô có thể nhanh chóng từ bỏ xăng dầu. Và Khalid Al-Falih, bộ trưởng năng lượng của Ả Rập Saudi, ước tính thế giới vẫn sẽ cần phải đầu tư vào dầu theo nhịp điệu gần 1 nghìn tỷ USD một năm cho 25 năm tiếp theo. Các chuyên gia kỳ cựu ngành dầu mỏ chỉ ra rằng ngay cả khi lượng tiêu thụ dầu toàn cầu lên đến đỉnh điểm, thế giới vẫn sẽ cần phải thay thế các giếng hiện có, hiện đang cạn dần hàng năm với tỷ lệ lên đến 5 triệu thùng dẫu mỗi ngày — khoảng gần bằng lượng sản xuất từ cách mạng đá phiến tại Mỹ trong bốn năm . Nhu cầu sẽ không giảm đột ngột

Một số công ty dầu mỏ lớn chấp nhận rằng trong tương lai họ có thể sẽ đầu tư ít hơn vào dầu và nhiều hơn vào khí tự nhiên, cũng như năng lượng tái tạo và pin. Rabah Arezki, người đứng đầu về thương phẩm tại IMF, cho biết thế giới có thể "ở thời điểm bắt đầu sự đổ vỡ lớn nhất với thị trường dầu mỏ từ trước đến nay."

Báo cáo này lập luận rằng thế giới cần phải đối mặt với viễn cảnh kết thúc kỷ nguyên dầu mỏ, ngay cả khi tại lúc này thời điểm ấy vẫn có vẻ khá xa, và đặt ra ba câu hỏi trọng tâm. Liệu cả ngành công nghiệp nói chung có đối mặt với biến đổi khí hậu bằng cách nghiên cứu và đầu tư vào các giải pháp thay thế cho nhiên liệu hóa thạch, hay sẽ nghiến răng chiến đấu cho một tương lai dựa vào dầu mỏ? Liệu phần lớn các nhà đầu tư trong ngành công nghiệp dầu mỏ có chuẩn bị nhìn nhận biến đổi khí hậu? Và liệu người tiêu dùng tại các quốc gia cả giàu lẫn nghèo có sẵn sàng từ bỏ tiếng rú của động cơ xăng cho tiếng kêu o o của động cơ pin?

Quỳnh Anh
The Economist


* James’ Corner built 1925. Inter-war free classical, see the curved building facade on the right.

George James (1855-1938) was a prominent citizen, butcher, businessman, man of property, alderman and twice mayor of Katoomba Council (1909-1910, 1914-16). As a member of the Council Parks and Reserves Committee he was active in establishing many of the lookouts and walking tracks we have today. Among the many buildings he owned and erected in Katoomba, he considered the James’ Building his proudest achievement for the town, his home McClintock in Abbotsford Rd is now a B&B. Four of his five sons also became butchers and operated James Bros quality butchers at Circular Quay in the 1920s.

The King's Theatre can be seen on the left of Katoomba St. with the words Casino de luxe & roof garden cafe on the facade. By 1931 the casino was no longer operating and the building was demolished in 1937, this suggests a date of 1926-1930 for the photo, James' building was opened in 1925 and looks fairly well used, so 1930s will do.

The motor car, centre foreground, is an Austin 7, produced 1922-39.

1 Comments

Tin liên quan

    Tài chính

    Trung Quốc