Giấc mơ đại học đẳng cấp quốc tế cho Việt Nam
đó là phải có 4,7 tỷ usd một năm, đây là chi phí vận hành của trường đại học Harvard, chi tiết ở dưới, riêng lương cho thầy cô là gần 2 tỷ usd/năm :) trong đó học phí thu từ sinh viên theo học đại học và cao học chỉ trả được 6,4% và 11,2% tương ứng, còn lại hơn 80% phải đến từ nhà nước và các mạnh thường quân...
-----
The cost of running Harvard, this is from the 28 August 2017 Bloomberg Businessweek:
Salaries and wages: $1.8 billion
Services purchased (catering, security, etc.): $583 million
Benefits: $530 million, roughly equal to the revenue from graduate programs
Depreciation: $338 million
Real estate (leases, utilities, etc.): $345 million
Other (subcontractors, publishing): $323 million
Supplies and equipment run $257m, scholarships $142m, and interest on the debt $235m, with travel expenses, advertising, and postage at smaller amounts.
Total operating costs are $4.7 billion, with undergraduate tuition covering 6.4 percent of that, graduate tuition covering 11.2 percent.
One of the difficulties with scaling up, of course, is that Harvard cannot always so easily scale the quality and resources of its donors. “Harvard as we know it” may be as large as the current set of donors can support. And “Harvard as we know it” likes…”Harvard as we know it,” not some other Harvard.
Bài trước: Thị trường cạnh tranh
Tags: economics
Theo báo cáo của ADB đánh giá về khoản vay, tất cả các tiêu chí mà RMIT thực hiện được trong vòng 8 năm đã vượt qua “mong đợi”, với ý nghĩa về việc RMIT đã trả toàn bộ khoản vay, tiếp tục vay thêm để mở rộng, tỷ lệ tuyển sinh liên tục tăng vượt mức mấy chục phần trăm hàng năm, RMIT Việt Nam đã trở thành “người vay” thành công trong mắt của các tổ chức cho vay và là cơ sở đại học nước ngoài có số lượng học sinh lớn nhất (khoảng hơn 6.000 sinh viên).
Đây thực sự là một giấc mơ đã thành hiện thực của những người làm giáo dục và nghiên cứu (và là nỗ lực lớn của những người đã vận động cho dự án này).
Chính vì vậy mà có lẽ là, theo quan sát nho nhỏ của tôi, sự hào hứng cũng như các cuộc tranh luận về Fulbright vừa qua chủ yếu là trong cộng đồng các trí thức, cả những người học trong và ngoài nước, các nhà giáo...
Điểm thú vị là tôi hầu như không thấy sự quan tâm đáng kể nào từ phía các em học sinh cấp 3 – những khách hàng tiềm năng của ĐH Fulbright. Điều này xem ra cũng không quá khó hiểu:
ĐH Fulbright có thu học phí không? Có chứ, thậm chí rất cao là khác.
ĐH Fulbright có tốt không? Cái này chưa biết, vì vẫn còn đang trong giai đoạn chuẩn bị.
ĐH Fulbright có alumni mạnh (các cựu sinh viên thành đạt) không? Chưa có, vì giờ mới thành lập.
Học ở ĐH Fulbright có vui hay không? Môi trường có trẻ trung, năng động, có gần gũi với lớp trẻ hay không? Hay sẽ mang màu sắc kinh viện? Cái này cũng chưa biết. Chỉ biết các thầy cô trong nhóm sáng lập thì đều đã trung tuổi, thậm chí già (như bác Bob Kerrey).
Bằng cấp của ĐH Fulbright là loại gì? Là bằng Việt Nam chứ không phải bằng Mỹ, vì Fulbright là trường của Việt Nam, Mỹ chỉ hỗ trợ tiền”.
“Thế nên, cho đến giờ, nói không quá thì nó vẫn là một cái “game” của giới trí thức với nhau, và là một món quà chính trị của giới chính khách hai quốc gia”.
“Vì thế, bỏ qua một bên chuyện lùm xùm quanh vụ Bob Kerry, ĐH Fulbright sẽ còn rất nhiều việc phải làm để trở thành một lựa chọn có ý nghĩa cho các bạn học sinh tốt nghiệp phổ thông.
Những việc các thầy cô làm vừa qua, dường như hướng nhiều vào môi trường làm việc mà các thầy cô muốn tạo dựng cho mình, chứ chưa tập trung nhiều lắm vào việc nghiên cứu xem khách hàng của mình có quan tâm không, quan tâm nhiều đến mức nào”,
2. William Fulbright, người đề xuất chương trình học bổng mang tên ông là một người đặc biệt. Ông là thượng nghị sỹ 4 kỳ liên tiếp và giữ chức chủ tịch ủy ban đối ngoại của quốc hội Mỹ. Với tư cách là trưởng ban đối ngoại của quốc hội, ông cho rằng chính sách ngoại giao của chính phủ Mỹ dựa trên sự ngạo mạn, tự coi mình là thượng đẳng. Ông viết hẳn 1 cuốn sách về vấn đề này “The Arrogance of Power”. Chương trình học bổng của ông đề xuất nhằm cho người nước ngoài tới Mỹ và người Mỹ ra nước ngoài học để có thể hiểu được thế giới - tránh được chiến tranh.
3. Với tư cách là thượng nghị sỹ, ông là một trong 3 người trong toàn thượng viện bỏ phiếu chống trong Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ mở đường cho Mỹ đổ quân vào VN. Trong thời gian chiến tranh, ông thường xuyên tổ chức các phiên điều trần buộc các thành viên chính phủ và quân đội Mỹ phải trả lời về chiến tranh VN. Ông cũng mời tới phiên điều trần các binh sỹ phản chiến như thượng nghị sỹ John Kerry - người đã vứt bỏ các Huân chương được thưởng trong chiến tranh để phản chiến và là người vận động hàng đầu cho việc bình thường hóa quan hệ với VN.
4. Vì Fulbright là một thượng nghị sỹ nổi tiếng thế giới về quan điểm chống tư tưởng đế quốc nên chương trình học bổng của ông được hầu hết các quốc gia tôn trọng. Ngay cả LX trong thời kỳ chiến tranh Lạnh vẫn cử những người ưu tú của mình theo học: vì lý do đó mà chính quyền Mỹ mở rộng chương trình này và đặt tên ông cho chương trình để tận dụng uy tín của ông. Về cơ bản, chương trình Fulbright của ông bị biến tướng vì ủy ban đối ngoại quốc hội của ông không có chức năng quản lý, điều hành nên toàn bộ chương trình lại nằm dưới sự quản lý của bộ ngoại giao Mỹ.
Những điểm trên cần lưu ý để tránh bị nhiều người cố tình đánh đồng giữa một William Fulbright phản đối chủ nghĩa bá quyền của Mỹ và bỏ phiếu chống chiến tranh tại VN với chương trình học bổng mang tên ông do bộ ngoại giao điều hành và trường đại học Fulbright ở VN.