Ngài Francis Drake và Nữ vương Elizabeth I đã biến nước Anh thành cường quốc thế giới như thế nào?


Lan Anh dịch, Quỳnh Anh hiệu đính,

How Sir Francis Drake and Queen Elizabeth I Made England a Global Power

Ngài Francis Drake và Nữ vương Elizabeth I đã biến nước Anh thành cường quốc thế giới như thế nào?

 

 

England is a nation divided.

Nước Anh là một quốc gia chia rẽ.

 

 

In one camp, nationalists decry the diabolical threat to their freedom posed by dastardly Continentals, instead throwing their hopes on a shadow empire of boundless trading opportunities.

Có phe là những người theo chủ nghĩa dân tộc lên án mối đe dọa khủng khiếp đối với tự do của nước Anh đến từ Châu Âu lục địa đê tiện, thế nên họ đặt hỵ vọng vào một đế chế ngầm với cơ hội giao thương vô tận.

 

 

In the other, pro-Europeans bitterly protest that their country is making a cataclysmic mistake and bide their time.

Phe khác là những người thân châu Âu kêu gào thảm thiết cho rằng nước Anh đang phạm phải sai lầm khủng khiếp và vẫn kiên nhẫn chờ thời.

 

 

Sound familiar? Just kidding.

Nghe rất quen đúng không? Tôi đùa chút thôi.

 

 

It’s not Boris Johnson’s Brexit Britain but the England of the late 16th century, the subject of “In Search of a Kingdom.”

Đó không phải nước Anh với Brexit của Boris Johnson mà là nước Anh cuối thế kỷ 16, nội dung chính của cuốn sách “In Search of a Kingdom” (tạm dịch: Đi tìm một Vương quốc).

 

 

In Laurence Bergreen’s colorful assessment, an unlikely alliance between Queen Elizabeth I and Sir Francis Drake empowered English Protestants to see off Continental Catholics and stake out the beginnings of the British Empire.

Theo nhận định đa chiều của tác giả Laurence Bergreen, liên minh kỳ lạ phi lý giữa Nữ vương Elizabeth I và Ngài Francis Drake đã tạo điều kiện cho tín đồ đạo Tin Lành của Anh xóa sổ Công giáo của châu Âu lục địa và đặt ra bước khởi đầu cho Đế quốc Anh.

 

 

Drake, a flame-bearded firebrand who resembled a cross between Errol Flynn and Yosemite Sam, has a peculiar status in English history.

Drake, một người hay gây rối, có chòm râu màu lửa trông như lai giữa Errol Flynn và Yosemite Sam, chiếm vị trí đặc biệt trong lịch sử nước Anh.

 

 

On the plus side, he was a superlative navigator who helped defeat the Spanish Armada.

Thế mạnh của ông là hoa tiêu bậc nhất giúp đánh bại hạm đội hải quân Armada của Tây Ban Nha.

 

 

In the debit column, he had an incurable habit of piratical thieving that leaves a bad taste in the mouth.

Còn nhược điểm của ông là thói quen không sửa được thích làm cướp biển cướp bóc khiến người ta phẫn nộ.

 

 

Among other attractions, this makes him an excellent candidate in whom to consider the warring passions of the English character: the stiff upper lip and the devil-may-care.

So với những điểm nổi bật khác, chính điểm này khiến ông trở thành nhân vật rất tuyệt vời để tìm hiểu những tính cách mâu thuẫn của người Anh: vẻ ngoài vững vàng không sợ hãi và tính liều lĩnh bất chấp hậu quả.

 

 

A tenant farmer’s son — the oldest of 12 brothers — with the accent and manners to match, Drake was despised by courtly patricians for his passing acquaintance with protocol.

Là con trai của một tá điền — anh cả trong gia đình 12 anh em — với giọng nói và lối cư xử đặc tính nông dân, Drake bị giới quý tộc thanh lịch coi thường bởi ông không biết gì về lễ nghĩa.

 

 

Yet to a scrappy island nation that was spoiling to stick it to the overweening Spanish Empire, a dose of “yah-boo-sucks” went a long way.

Nhưng đối với quốc đảo đang hăng máu chiến muốn cho Đế quốc Tây Ban Nha vênh váo kia biết tay, thái độ bất cần “yah-boo-sucks” rất hiệu quả.

 

 

Wrap it in a flag, and it ran and ran — and still does.

Khoác bên ngoài thái độ này bằng lá quốc kỳ, thì nó sẽ còn tiếp diễn mãi — và đến giờ vẫn vậy.

 

 

Bergreen does not make the link to modern-day Britain, but can it be coincidental that “Brexiteer” echoes “privateer,” the old term for a state-licensed sea raider?

Bergreen không tạo ra mối liên hệ với nước Anh thời hiện đại, nhưng có phải ngẫu nhiên mà “Brexiteer” lại phát âm là “privateer”, thuật ngữ cũ dành cho một người lái tàu biển được nhà nước cấp phép không?

 

 

In Drake’s own time there was no British Empire, and no Britain (something to watch again).

Vào thời của Drake không có Đế quốc Anh, và cũng không có Vương quốc Anh (điều cần nhìn lại).

 

 

In England there was a shaky national church, which Elizabeth’s father, Henry VIII, had made himself head of, splitting the country in two.

Ở Anh, chỉ có một giáo hội quốc gia yếu kém, vua Henry VIII, cha của Elizabeth tự phong mình là người đứng đầu, chia cắt đất nước làm đôi.

 

 

The papist powers in Europe considered England a wicked backwater ruled by a heretical witch — justification enough for the governing Protestant clique to knock off Spanish ships on the high seas.

Thế lực giáo hoàng ở châu Âu coi Anh là quốc gia trì trệ xấu xa bị cai trị bởi một phù thủy dị giáo —  cho nên bè lũ chính quyền Tin lành này mới đi cướp phá tàu Tây Ban Nha trên biển.

 

 

As Bergreen notes, the young Drake started his career under his Plymouth cousin, the state-backed buccaneer John Hawkins, by seizing slave ships and illicitly selling the captured cargo in the Spanish Caribbean.

Tác giả Bergreen kể lại, khi còn trẻ Drake bắt đầu sự nghiệp làm việc cho người anh họ John Hawkins ở Plymouth, làm nghề cướp biển được nhà nước hậu thuẫn, chuyên đi cướp tàu buôn nô lệ và bán chui hàng hóa cướp được ở biển Caribe của Tây Ban Nha.

 

 

Plymouth recently voted to remove Hawkins’s name from a city square after protests against monuments to philanthropic slavers.

Plymouth gần đây bỏ phiếu xóa tên Hawkins khỏi một quảng trường sau những phản đối gay gắt đối với đài tưởng niệm dành cho những nhà từ thiện từng là kẻ buôn bán nô lệ.

 

 

As the future overseer of the Royal Navy, Hawkins had at least as much to do with the defeat of the Spanish Armada as his younger cousin.

Là giám quân tương lai của Hải quân Hoàng gia, Hawkins ít nhiều có công trong việc đánh bại hạm đội hải quân Armada của Tây Ban Nha chẳng kém người em họ trẻ tuổi Drake.

 

 

Yet a seafront statue of Drake still stands in Plymouth, defying a petition demanding its removal.

Thế nhưng tượng Drake bên bờ biển vẫn còn ở Plymouth, bất chấp có kiến nghị đòi dỡ bỏ.

 

 

It might yet survive, along with the Drake naval base, roundabout and mall.

Bức tượng có thể vẫn tồn tại, cùng với căn cứ hải quân, bùng binh và trung tâm mua sắm mang tên Drake.

 

 

After two voyages, Drake quit and formed an alliance with escaped slaves to knock off a Spanish mule train carrying gold and silver across Panama.

Sau hai cuộc hành trình, Drake thôi làm cho anh họ và liên minh với những nô lệ bỏ trốn để đi cướp đội tàu chở vàng bạc của Tây Ban Nha đi qua Panama.

 

 

By then he had conceived a violent and self-justifying hatred of the Spanish Empire with its atrocities and rapine and Inquisition; abuses that confirmed him in the reasonable belief that those most convinced of their own certainties do most damage to others.

Khi đó, ông đã hình thành thái độ thù hận mãnh liệt manh tính tự biện hộ cho bản thân đối với Đế chế Tây Ban Nha bởi hành động tàn bạo, hành vi cướp bóc, và Tòa án dị giáo; những sự lộng hành này càng củng cố niềm tin hợp lý của ông cho rằng kẻ nào càng chắc chắn cho mình là đúng thì càng gây hại cho người khác.

 

 

This animus, together with his navigational prowess, lust for lucre and staunch Protestantism, made him a godsend for Elizabeth, whose only safe path to ocean trade was to outsource empire-building and claim to have absolutely nothing to do with it.

Mối ác cảm này, cùng với kỹ năng hoa tiêu, ham muốn của cải và là con chiên Tin lành ngoan đạo, biến Drake trở thành món quà trời ban cho Elizabeth, khi nước Anh chỉ có thể phát triển mậu dịch trên biển an toàn bằng cách thuê mướn thế lực khác và vờ như hoàn toàn không liên quan đến nó.

 

 

Drake was to voyage to the west coast of the Americas to break ground for future trade missions.

Drake có nhiệm vụ giong buồm đến bờ tây châu Mỹ đặt nền móng cho các thương vụ trong tương lai.

 

 

If he plundered Spain’s plundered wealth in the process, so much the better.

Trong quá trình đó, nếu ông cướp được đồ ăn cướp của Tây Ban Nha thì càng tốt.

 

 

In the event, as Bergreen engagingly recounts, he did far more.

Về vấn đề này, theo lời kể lại hấp dẫn của tác giả Bergreen, ông còn làm nhiều hơn thế.

 

 

Setting sail in 1577, he pushed across the Atlantic to Brazil, bellowing psalms into the wind and dining to airs played on viols.

Ra khơi năm 1577, ông băng qua Đại Tây Dương đến Brazil, hát vang thánh ca trong gió và gây ấn tượng bằng bữa ăn tối trong tiếng đàn viol.

 

 

He swung down the coast, briefly stopping to behead a minor nobleman for alleged mutiny and witchcraft, before dashing through the treacherous Strait of Magellan at twice the clip of Magellan himself.

Ông di chuyển dọc bờ biển, chỉ dừng lại rất nhanh để chặt đầu một nhà quý tộc nhỏ vì tội nổi loạn và phù thủy, trước khi vượt qua địa hình hiểm trở của Eo biển Magellan hai lần tại chính bến tàu của Magellan.

 

 

There he emerged into a ferocious storm that swallowed up all but his own plucky little galleon, which he proudly renamed the Golden Hind.

Ở đó ông gặp phải cơn bão dữ dội nuốt chửng tất cả trừ con thuyền buồm may mắn của ông, sau này ông tự hào đổi tên nó thành Golden Hind.

 

 

Coasting along Chile and Peru, he picked off groaning Spanish treasure ships and unsuspecting Spanish encampments; at one landing, he made off with a stack of silver bars without disturbing the sleeping sentry.

Đi dọc bờ biển Chile và Peru, ông cướp từ những tàu chở kho báu đầy oán giận của Tây Ban Nha và những đồn điền Tây Ban Nha không đề phòng; trong một lần lên bờ, ông cướp được một đống bạc thỏi mà không hề đánh động đến lính gác đang ngủ.

 

 

He claimed California for Elizabeth, tried and failed to find a Northwest Passage back home through Canada, and headed across the Pacific.

Ông tuyên bố California thuộc về Elizabeth, rồi cố gắng tìm Hành lang Tây Bắc qua Canada trở về nhưng thất bại, nên chuyển hướng băng qua Thái Bình Dương.

 

 

Bagging spices in the Moluccas, encountering killer crabs, courteous kings and deadly shoals, he crossed the Indian Ocean, rounded the Cape of Good Hope and sailed into Plymouth Harbor after a voyage of nearly three years, the first captain to circumnavigate the globe and return alive.

Chất đầy những bao gia vị ở Moluccas, chạm trán cua sát thủ, gặp gỡ các vị vua và đối mặt với những đám đông hung dữ, ông băng qua Ấn Độ Dương, vòng qua Mũi Hảo Vọng rồi căng buồm đến Cảng Plymouth sau một chuyến đi gần ba năm, trở thành thuyền trưởng đầu tiên đi vòng quanh thế giới và sống sót trở về.

 

 

Whether that feat was intentional or extemporized — Bergreen appears to lean toward the first — it was no fluke.

Dù thành công đó là chủ tâm hay vô tình — tác giả Bergreen có vẻ nghiêng về nguyên nhân đầu tiên — đó không phải chỉ là may mắn.

 

 

Captaincy in the Age of Discovery was about managing men and disasters.

Nghề thuyền trưởng trong Kỷ nguyên Khám phá là quản lý con người và tai họa.

 

 

Hunger, thirst, disease, exhaustion and dissent were greater hazards than defective charts.

Đói, khát, bệnh tật, kiệt sức và bất bình là những mối nguy lớn hơn cả bản đồ bị sai lệch.

 

 

Drake had the iron resolve and high spirits for the job.

Drake có quyết tâm sắt đá và tinh thần cao với công việc.

 

 

He got on famously with Indigenous people and sent off his Spanish captives with a full belly and a parting gift, all in the interest of extracting the greatest possible wealth at the least possible cost.

Ông nổi tiếng có mối quan hệ tốt với cộng đồng người bản địa và trục xuất tù binh Tây Ban Nha khỏi đây với cái bụng no nê và quà chia tay, tất cả đều nhằm mục đích khai thác của cải nhiều nhất có thể với chi phí tiết kiệm nhất.

 

 

And what wealth.

Và của cải thì là gì.

 

 

Golden indeed, Drake’s galleon disgorged the century’s biggest haul of precious metal; Elizabeth’s own share exceeded the crown’s annual income.

Đó chính là vàng, con thuyền buồm lớn của Drake chất đầy khối lượng vàng lớn nhất trong thế kỷ; phần riêng của Elizabeth vượt quá cả thu nhập hằng năm của vị nữ vương Anh.

 

 

Rewards followed: the knighthood, coat of arms, country mansion, estates, marriage to an heiress and, most important, favorite status at court.

Phần thưởng sau đó: tước hiệp sĩ, huy hiệu, dinh thự ở miền quê, điền trang, hôn nhân với người thừa kế, và quan trọng nhất là tiếng nói tại tòa án.

 

 

Full acceptance never came, and neither in his lifetime did recognition of his spectacular but illegal circumnavigation.

Ông không được công nhận hoàn toàn, và trong suốt cuộc đời mình, chuyến vượt biển ngoạn mục nhưng bất hợp pháp của ông cũng không được nhìn nhận.

 

 

Elizabeth still hoped to avoid outright conflict with Spain and put about the barefaced lie that he had limped home empty-handed.

Elizabeth vẫn hy vọng có thể tránh được xung đột trực tiếp với Tây Ban Nha và nói dối rằng Drake trở về tay không.

 

 

Bergreen, who has written well-regarded biographies of Columbus and Magellan, proposes the haul as the golden counterweight that tipped the balance of power in Europe.

Tác giả Bergreen, từng viết vài cuốn tiểu sử được đánh giá cao về Columbus và Magellan, cho rằng khối lượng vàng Drake mang về giống như đối trọng làm nghiêng thế cân bằng quyền lực ở châu Âu.

 

 

This is leaning heavily on the scales; the financial upside for England was greater than the downside for Spain.

Cán cân lệch hẳn đi; phần tài chính nước Anh thu được lớn hơn thiệt hại đối với Tây Ban Nha.

 

 

Yet psychologically, the voyage unquestionably electrified both.

Tuy nhiên, về mặt tâm lý, hành trình này chắc chắn khiến cả hai quốc gia kinh ngạc.

 

 

It emboldened England to project power at sea and conceive a global trading empire.

Nó thúc đẩy nước Anh thể hiện sức mạnh trên biển và hình thành một đế chế thương mại toàn cầu.

 

 

Conversely, it humiliated the Spanish, to whom the man they called El Draque — the dragon — became the stuff of legend, credited with diabolical powers and, like a Protestant Saladin, admired for gallantry to his foes.

Ngược lại, nó làm bẽ mặt người Tây Ban Nha, với họ thì kẻ được ví như El Draque — con rồng — đã trở thành huyền thoại, được cho là có sức mạnh ma quỷ và, giống như một Saladin của đạo Tin lành, được ngưỡng mộ vì lòng dũng cảm khi đối diện với kẻ thù.

 

 

The Elizabeth-Drake combination is fascinating, but perhaps unavoidably it results in a patchy telling.

Mối hợp tác giữa Elizabeth-Drake tuy nghe hấp dẫn, nhưng có lẽ cũng không tránh khỏi dẫn đến những câu chuyện chắp vá.

 

 

Events at sea and court unfold separately, with few actual interactions between queen and captain.

Các sự kiện trên biển và ở tòa án diễn ra riêng biệt, hầu như không có liên hệ giữa nữ hoàng và thuyền trưởng.

 

 

Both make sporadic appearances in the second half, an account of the defeat of the Spanish Armada, to which Drake’s key contribution was a wildly successful pre-emptive strike on the enemy’s preparations at Cádiz.

Cả hai xuất hiện riêng rẽ trong khoảng thời gian sau đó, sau thất bại của hạm đội hải quân Armada Tây Ban Nha, trong sự kiện đó Drake đã có đóng góp quan trọng với chiến thắng phủ đầu trước sự chuẩn bị của đối phương tại Cádiz.

 

 

There are oddities, too.

Cũng có vài chi tiết kỳ quặc.

 

 

The Golden Hind was named after the whole of a female red deer, not its rear legs.

Golden Hind được đặt tên với nghĩa là một con nai cái màu đỏ, chứ không phải với hàm ý hai chân sau của nó.

Galicia is not due south of London.

Galicia không theo hướng thẳng về phía nam London.

 

 

Flurries of repetitions and recapitulations trip up the narrative.

Những lời kể rối loạn lặp đi lặp lại về chuyến hành trình càng đẩy câu chuyện đi xa.

 

 

After being sent back once more into the thick of an apparently concluded story line, for this reader it felt like déjà vu all over again.

Sau khi bị đưa trở về mạch truyện tưởng chừng đã kết thúc, độc giả giống như lại trải qua cảm giác déjà vu.

 

 

This is a shame, as Drake’s story is both dramatic and timely.

Điều này quả thật đáng tiếc, vì câu chuyện của Drake vừa kịch tính vừa không lỗi thời.

 

 

His global joy ride may not have been intended as a geopolitical statement, and his later adventures ended in disaster.

Hành trình chu du khắp thế giới kỳ thú của ông có thể không dự tính sẽ mang tính chất tuyên bố địa chính trị, và những cuộc phiêu lưu sau này cũng kết thúc trong thảm họa.

 

 

But he helped chart a course for the future British Empire, which learned to be more freewheeling and commercial, less draconian and statist than its Spanish forebear.

Nhưng ông giúp vạch ra lộ trình cho Đế quốc Anh trong tương lai, tự chủ hơn và mang tính thương mại hơn, bớt tàn bạo và tập trung quyền lực hoàng gia so với người Tây Ban Nha đi trước.

 

 

Along the way Drake came to embody a streak of Englishness — bumptious, tenacious, patriotic, crafty, vainglorious and defiantly exceptionalist — that is back with a vengeance.

Drake trở thành hiện thân của tính cách Anh — tự mãn, ngoan cường, yêu nước, xảo quyệt, tự đắc và đặc biệt cứng đầu —  đang quay lại báo thù.

 

 

Welcome to the new Elizabethan Age.

Chào mừng đến với Thời đại Elizabeth mới.


IN SEARCH OF A KINGDOM
Francis Drake, Elizabeth I, and the Perilous Birth of the British Empire
By Laurence Bergreen
Illustrated. 464 pp. Custom House. $29.99.


* (tiếng lóng) thể hiện thái độ coi thường và chửi rủa.

1 Comments

Tin liên quan

    Tài chính

    Trung Quốc