Khi láng giềng của bạn là hàng ngàn con lợn

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,

When Thousands of Hogs Are Your Neighbors

 

Khi láng giềng của bạn là hàng ngàn con lợn

 

 


 

In “Wastelands,” Corban Addison tells the extraordinary story of how some North Carolina residents stood up to a meatpacking company polluting their communities.

 

Trong cuốn “Wastelands” (“Đất bỏ hoang”), Corban Addison kể lại câu chuyện phi thường về một số cư dân Bắc Carolina đã đứng lên chống lại một công ty bán buôn thịt gây ô nhiễm cho cộng đồng của họ như thế nào.

 

 

 

Human beings have been raising pigs for about 10,000 years.

 

Có đến khoảng 10.000 năm nay, con người đã và vẫn đang chăn nuôi lợn.

 

 

 

But the methods used to breed, raise, process and market them have been profoundly transformed during the last few decades.

 

Nhưng những phương pháp sử dụng để gây giống, chăn nuôi, chế biến và tiếp thị lợn đã thay đổi cực kỳ nhiều trong vài thập kỷ qua.

 

 

 

In the United States, until recently, hogs were raised on small farms, fed leftover grain, allowed to run freely in pens and barns and sold at live auctions with competitive bidding.

 

Ở Mỹ, đến tận gần đây, lợn đã được nuôi trong những trang trại nhỏ, cho ăn ngũ cốc thừa, được thả rông trong bãi quây và chuồng trại và được bán tại các cuộc đấu giá trực tiếp bằng cách trả giá cạnh tranh.

 

 

 

The typical herd ranged in size from the dozens to the low hundreds.

 

Một đàn điển hình có quy mô từ hàng tá đến vài trăm con.

 

 

 

During the 1980s, cheap, federally subsidized grain, an absence of antitrust enforcement, the rise of huge meatpacking companies, and new production techniques devised by those companies turned hogs into industrial commodities — and drove 80 to 90 percent of American hog farmers out of the business.

 

Trong thời kỳ những năm 1980, ngũ cốc giá rẻ và được liên bang bao cấp, lại không thi hành luật chống độc quyền, nên sự nổi lên của các công ty bán buôn thịt khổng lồ và những kỹ thuật sản xuất mới do các công ty đó phát minh ra đã biến lợn thành hàng hóa công nghiệp – và hất cẳng 80% ~ 90% người nuôi lợn ở Mỹ ra khỏi ngành kinh doanh này.

 

 

 

The places where hogs are now raised are “farms” in name only.

 

Những nơi nuôi lợn bây giờ chỉ còn là “trang trại” trên danh nghĩa.

 

 

 

They’re essentially livestock factories, dedicated to uniformity and efficiency, that house thousands of hogs crammed together in windowless sheds.

 

Về thực chất chúng là những nhà máy chăn nuôi, được thiết kế riêng cho mục đích đồng nhất và hiệu quả, là nơi chứa hàng ngàn con lợn được nhồi nhét trong những ngăn chuồng không có cửa sổ.

 

 

 

And like other factories, they produce a good deal of waste — in this case, about a gallon and a half of urine and excrement per hog every day.

 

Và giống như các nhà máy khác, chúng thải ra rất nhiều chất thải – trong trường hợp này là khoảng 5,7 lít nước tiểu và phân của một con lợn mỗi ngày.

 

 

 

All of that waste has to go somewhere.

 

Toàn bộ số chất thải đó phải đi đến một nơi nào đó.

 

 

 

And where it winds up has proved remarkably destructive to America’s rural landscape and the people who live in it.

 

Và cái nơi mà nó đến đã chứng tỏ sự tàn phá rõ rệt đối với cảnh quan nông thôn Mỹ và những người sống ở đó.

 

 

 

“Wastelands,” by Corban Addison, tells the extraordinary story of how some neighbors of hog operations in North Carolina battled a meatpacking company polluting their neighborhoods.

 

Cuốn “Wastelands” của Corban Addison, kể lại câu chuyện phi thường về một số cư dân sống bên cạnh các cơ sở chăn nuôi lợn ở Bắc Carolina đã tranh đấu với một công ty bán buôn thịt gây ô nhiễm khu vực dân cư của họ như thế nào.

 

 

 

They sued the company in federal court, launching cases that took years to resolve, with surprising twists and serious implications not only for the future of American agriculture but also for the health of our democracy.

 

Họ đã kiện công ty này lên tòa án liên bang, khởi đầu những vụ kiện tốn nhiều năm để giải quyết, với những bước ngoặt bất ngờ sửng sốt và những hậu quả nghiêm trọng không chỉ đối với tương lai của nền nông nghiệp Mỹ mà còn đối với sự lành mạnh của nền dân chủ của chúng ta.

 

 

 

Addison, an attorney and best-selling novelist, is the ideal writer to tell this story — and North Carolina is in many ways the perfect setting from which to explore the real-life impact of concentrated animal feeding operations, abbreviated CAFOs, an official term for modern-day livestock factories.

 

Addison, một luật sư và là tiểu thuyết gia có sách bán chạy, là cây bút lý tưởng để kể câu chuyện này – và Bắc Carolina về nhiều phương diện là bối cảnh hoàn hảo để khám phá tác động trong đời thực của các hoạt động nuôi động vật tập trung, viết tắt là CAFO, một thuật ngữ chính thức để gọi các nhà máy chăn nuôi hiện đại.

 

 

 

In the early 1970s, North Carolina had about 18,000 hog farms, with an average herd of about 75 hogs.

 

Đầu những năm 1970, Bắc Carolina có khoảng 18.000 trang trại nuôi lợn, tính trung bình mỗi đàn khoảng 75 con.

 

 

 

Today, it has only 2,000 hog operations, with herds as large as 60,000 hogs.

 

Ngày nay, nó chỉ có 2.000 cơ sở chăn nuôi lợn, với những đàn lợn lên đến 60.000 con.

 

 

 

The state’s nine million hogs annually produce from three to 10 times as much waste as New York City does.

 

Chín triệu con lợn của bang này hàng năm thải ra lượng chất thải nhiều gấp 3 đến 10 lần Thành phố New York.

 

 

 

But that hog waste isn’t sent to high-tech treatment plants.

 

Song chất thải đó của lợn không được đưa đến các nhà máy xử lý công nghệ cao.

 

 

 

It is pumped into large pools, euphemistically called “lagoons.”

 

Nó được bơm vào những ao lớn, được gọi một cách hoa mỹ là những cái “hồ sinh học”.

 

 

 

Just one of those pools can hold enough waste to cover 15 football fields with crap a foot deep.

 

Chỉ cần một trong những hồ đó cũng chứa đủ chất thải để phủ phân lên kín 15 sân bóng bầu dục với chiều dày khoảng 30 cm.

 

 

 

And when lagoons are full, the untreated waste is sprayed onto nearby fields.

 

Và khi những hồ đó đầy, chất thải chưa được xử lý sẽ được bơm phun lên những cánh đồng gần đấy.

 

 

 

Addison describes how giant spray guns shoot 200 gallons of waste per minute into the air, noxious stuff with “a strange muddy-pink color to it” that tends to “drift like a cloud on the breeze.”

 

Addison miêu tả cách những khẩu súng phun khổng lồ bắn ra gần 757 lít chất thải mỗi phút vào không khí, một loại chất độc hại có “màu hồng đục lạ thường” có xu hướng “trôi như mây trong gió nhẹ.”

 

 

 

The North Carolina hog boom occurred mainly in the coastal plain east of Interstate 95, Addison notes, “a rural region of the state invisible to outsiders and forgotten by most North Carolinians.”

 

Ngành chăn nuôi lợn ở Bắc Carolina bùng nổ chủ yếu ở vùng đồng bằng duyên hải phía đông Cao tốc Liên bang 95, Addison lưu ý, “là vùng nông thôn của tiểu bang này mà người bên ngoài không nhìn thấy được và bị hầu hết người dân Bắc Carolinia lãng quên.”

 

 

 

From the 1980s through the early 2000s, former tobacco farmers were encouraged to raise hogs under contract to the meatpackers.

 

Từ những năm 1980 đến đầu những năm 2000, những nông dân trước đây vẫn trồng thuốc lá được khuyến khích chăn nuôi lợn theo hợp đồng với những nhà bán buôn thịt.

 

 

 

In one county, the hogs soon outnumbered the humans by a factor of 35 to one.

 

Ở một hạt, số lượng lợn nhanh chóng đông hơn số dân với tỷ lệ 35 con lợn trên một đầu người.

 

 

 

The new hog factories were built without restrictions from local zoning laws, sometimes right next to homes inhabited for generations — mainly by families who were poor and Black.

 

Những nhà máy chăn nuôi lợn mới đã được xây dựng mà không bị luật quy hoạch vùng của địa phương hạn chế gì, đôi khi nằm kề ngay bên những ngôi nhà có nhiều thế hệ sinh sống – chủ yếu là các gia đình nghèo và là người da đen.

 

 

 

The quality of life in those homes deteriorated greatly.

 

Chất lượng sống trong những ngôi nhà đó trở nên cực kỳ tồi tệ.

 

 

 

Tractor-trailers carrying hogs drove past day and night.

 

Xe tải đầu kéo chở lợn rầm rầm chạy qua cả ngày lẫn đêm.

 

 

 

The high mortality rate in the sheds and the dead hogs left outdoors awaiting removal attracted flocks of vultures.

 

Tỷ lệ chết trong chuồng cao và những con lợn chết bị bỏ ngoài trời chờ chuyển đi đã thu hút những đàn kền kền.

 

 

 

The vast pools of waste emitted a terrible, overpowering smell.

 

Những ao chứa chất thải rộng lớn tỏa ra mùi hôi thối nồng nặc khủng khiếp.

 

 

 

And the waste sprayed on fields often fell on the roofs of nearby houses, Addison writes, with “the soft pitter-patter of rain.”

 

Và chất thải được bơm phun ra những cánh đồng thường rơi xuống mái những ngôi nhà gần đó, Addison viết, như “tiếng mưa nhẹ rơi lộp độp”.

 

 

 

DNA tests revealed traces of hog excrement inside kitchens, on the surfaces of refrigerators, on top of stoves.

 

Xét nghiệm DNA phát hiện ra dấu vết phân lợn bên trong những căn bếp, trên bề mặt các tủ lạnh, trên mặt các bếp nấu.

 

 

 

It was a textbook case of environmental racism.

 

Đây là ví dụ kinh điển hoàn hảo về sự phân biệt chủng tộc trong môi trường sống.

 

 

 

After years of complaints to local and state authorities went unheeded, more than 500 neighbors of North Carolina CAFOs, almost all of them Black, filed lawsuits against the meatpacking company that seemed the worst offender: Smithfield Foods.

 

Sau nhiều năm khiếu nại với các cấp chính quyền địa phương và tiểu bang mà không cấp nào thèm để ý, hơn 500 người sống bên cạnh các CAFO ở Bắc Carolina, hầu hết đều là người da đen, đã đệ đơn kiện công ty bán buôn thịt có vẻ là kẻ phạm tội nặng nhất: Smithfield Foods.

 

 

 

In a David-versus-Goliath tale like this one, you could hardly hope for a more ruthless and intimidating giant than Smithfield.

 

Trong câu chuyện kiểu David-chống-lại-Goliath như thế này, ta khó lòng mong có một gã khổng lồ tàn bạo và đáng sợ hơn Smithfield.

 

 

 

The company is not only the world’s largest producer of pork but also the owner of the world’s largest slaughterhouse.

 

Công ty ấy không chỉ là nhà sản xuất thịt lợn lớn nhất thế giới mà còn là chủ sở hữu của lò mổ lớn nhất thế giới.

 

 

 

Located in Tar Heel, N.C., that slaughterhouse disassembles about 32,000 hogs a day.

 

Tọa lạc tại Tar Heel, Bắc Carolina, lò mổ đó giết mổ khoảng 32.000 con lợn mỗi ngày.

 

 

 

For years, the workers at the Tar Heel plant were treated almost as poorly as the hogs: Smithfield harassed union supporters, paid workers to spy on fellow workers and employed deputy sheriffs as corporate security officers who beat and arrested workers.

 

Nhiều năm trời, công nhân tại nhà máy Tar Heel bị đối xử tồi tệ chẳng khác gì những con lợn: Smithfield đe dọa những người ủng hộ công đoàn, trả tiền cho công nhân để họ bí mật theo dõi đồng nghiệp và tuyển dụng các phó cảnh sát trưởng của hạt làm nhân viên an ninh của công ty, những kẻ này đã đánh đập và bắt giữ công nhân.

 

 

 

The company originated in Smithfield, Va., during the 1930s and later became a corporate dynasty, successively led by Joseph W. Luter Sr., Joseph W. Luter Jr. and Joseph W. Luter III.

 

Công ty này khởi nghiệp tại Smithfield, Virginia từ thời những năm 1930 và sau đó trở thành một công ty kế thừa quyền lực gia đình, do Joseph W. Luter Sr., Joseph W. Luter Jr. và Joseph W. Luter III nối tiếp nhau lãnh đạo.

 

 

 

It grew by pioneering industrial methods of hog production and by taking over its competitors, one by one.

 

Nó phát triển nhờ các phương pháp công nghiệp tiên phong trong chăn nuôi sản xuất lợn và bằng cách mua lại các công ty đối thủ cạnh tranh của mình, từng công ty một.

 

 

 

But when the North Carolina lawsuits were filed in 2013, Smithfield Foods was no longer an American company.

 

Nhưng khi các vụ kiện ở Bắc Carolina được đệ trình lên tòa năm 2013, Smithfield Foods đã không còn là một công ty của Mỹ nữa.

 

 

 

Shuanghui International Holdings, a Chinese corporation now known as WH Group, had bought it the previous year, with financing from the government-owned Bank of China.

 

Shuanghui International Holdings, một tập đoàn của Trung Quốc hiện được gọi là WH Group, đã mua lại nó vào năm trước đó với sự tài trợ từ Ngân hàng Trung Quốc thuộc sở hữu của chính phủ [Trung Quốc].

 

 

 

The cost of raising hogs in North Carolina was about half as expensive as raising them in China — and one of the reasons, Addison explains, is that “the Chinese government doesn’t allow its hog farmers to use lagoons and spray fields.”

 

Chi phí nuôi lợn ở Bắc Carolina chỉ bằng một nửa so với ở Trung Quốc – và một trong những lý do nữa là, theo như Addison giải thích, “Chính phủ Trung Quốc không cho phép những người chăn nuôi lợn của họ sử dụng hồ chứa chất thải và ruộng để bơm phun chất thải”.

 

 

 

Instead, Chinese hog operations must invest in “treatment facilities” and “biological odor control systems to protect neighbors.”

 

Thay vào đó, các cơ sở chăn nuôi lợn của Trung Quốc phải đầu tư vào những “cơ sở xử lý” và “hệ thống kiểm soát mùi sinh học để bảo vệ hàng xóm láng giềng.”

 

 

 

“Wastelands” is full of memorable people.

 

“Wastelands” đầy những gương mặt đáng nhớ.

 

 

 

An assortment of high-powered attorneys agrees to take on Smithfield, working free in return for a share of any settlement.

 

Một nhóm luật sư giỏi đồng ý nhận vụ Smithfield, họ làm việc miễn phí đổi lại sẽ được một phần của bất kỳ thỏa thuận dàn xếp nào bên ngoài tòa án.

 

 

 

They fly on private jets, employ focus groups, hire a videographer from National Geographic to convey the neighbors’ plight.

 

Họ bay trên máy bay tư nhân, tuyển dụng các nhóm trọng tâm, thuê một nhà quay phim từ National Geographic để truyền đi hoàn cảnh khốn khổ của những người láng giềng của lợn.

 

 

 

Mona Lisa Wallace is the most sympathetic and compelling member of the legal team, brilliant, indefatigable, raised in small-town North Carolina with a working-class background, dedicated to using the courts to help victims of corporate misbehavior.

 

Mona Lisa Wallace là thành viên biết thông cảm và thuyết phục nhất trong nhóm pháp lý đó, thông minh, không biết mệt mỏi, lớn lên ở Bắc Carolina tỉnh lẻ và xuất thân từ tầng lớp lao động, chị chuyên tâm vào việc sử dụng các phiên tòa đó để giúp đỡ những nạn nhân của hành vi sai trái của công ty Smithfield.

 

 

 

Among the plaintiffs, Elsie Herring — one of 15 children, who left North Carolina for New York City and returned almost 30 years later only to find herself drenched in a misty rain of manure on a walk near her family home — stands out.

 

Trong số các nguyên đơn, nổi bật lên Elsie Herring – một trong số 15 đứa trẻ đã rời Bắc Carolina đến Thành phố New York và gần 30 năm sau quay về chỉ để thấy mình bị ướt sũng trong một cơn mưa phân mờ mịt khi đi dạo gần nhà.

 

 

 

As does Violet Branch, one of 11 children, who has lived for more than 70 years in the house where she was born but must endure the pollution from two waste lagoons next door.

 

Violet Branch cũng thế, là một trong số 11 người con, bà đã sống hơn 70 năm trong ngôi nhà nơi bà sinh ra nhưng phải chịu đựng sự ô nhiễm từ hai hồ nước thải ngay bên cạnh.

 

 

 

Before the lawsuit, Branch had tirelessly contacted public health officials, journalists, even the Environmental Protection Agency in Washington, seeking relief from the stench.

 

Trước vụ kiện, Branch đã liên lạc không ngừng với các quan chức y tế công cộng, với các nhà báo, thậm chí với cả Cơ quan Bảo vệ Môi trường ở Washington, để tìm sự trợ giúp loại bỏ mùi hôi thối.

 

 

 

“Nothing is going to be done about this issue — nothing has been done,” she bravely testifies in court, “because the power structure in those communities is not going to allow something to be done about it.”

 

“Người ta sẽ chẳng làm gì với vấn đề này – chưa có một việc gì được thực hiện hết,” bà dũng cảm làm chứng trước tòa, “bởi vì cấu trúc quyền lực trong những cộng đồng ấy sẽ không cho phép có một điều gì được thực hiện về vấn đề này.”

 

 

 

Smithfield unabashedly uses its power to avoid responsibility for the legal “nuisance” at issue in court.

 

Smithfield không ngần ngại sử dụng quyền lực của mình để trốn tránh trách nhiệm về "mối phiền toái" pháp lý đang tranh cãi tại tòa án.

 

 

 

It threatens to leave the state if the lawsuits are successful.

 

Công ty này đe dọa sẽ rời khỏi tiểu bang nếu các vụ kiện đó thắng.

 

 

 

It spies on the attorneys and hires private investigators to keep tabs on the plaintiffs.

 

Nó thám thính các luật sư và thuê những nhà điều tra tư nhân để theo dõi các nguyên đơn.

 

 

 

It helps to create a front group, “NC Farm Families.”

 

Nó giúp tạo ra một nhóm vỏ bọc có tên là “NC Farm Families” (“Những gia đình Nông trang Bắc Carolina.”)

 

 

 

It works closely with the state farm bureau, chamber of commerce and Republican Party, whose members introduce bills in the legislature to protect Smithfield from liability.

 

Nó hợp tác chặt chẽ với Cục nông trang của tiểu bang, với phòng thương mại và đảng Cộng hòa, thành viên của các cơ quan tổ chức này đề xuất những dự luật với cơ quan lập pháp để bảo vệ Smithfield khỏi bị trách nhiệm pháp lý.

 

 

 

The odors from the company’s hog operations, one Republican legislator boasts, are the “smell of freedom.”

 

Một thành viên cơ quan lập pháp thuộc đảng Cộng hòa huênh hoang rằng mùi từ các cơ sở chăn nuôi lợn của công ty này là “mùi của tự do.”

 

 

 

The legislature’s only significant departure from industry-friendly policies occurred in 1997, when it passed a temporary moratorium on new hog operations — just as two were about to be built in Moore County, home to the Pinehurst resort and its legendary golf courses.

 

Sự chuyển hướng đáng kể duy nhất của cơ quan lập pháp ra khỏi những chính sách thân thiện với ngành này xảy ra hồi năm 1997, khi cơ quan đó thông qua lệnh đình chỉ tạm thời đối với các cơ sở chăn nuôi lợn mới – trong lúc hai cơ sở sắp được xây dựng ở Hạt Moore, nơi có khu nghỉ dưỡng Pinehurst và các sân gôn huyền thoại của nó.

 

 

 

I am neither a vegan nor a vegetarian.

 

Tôi không phải là người ăn chay trường cũng chẳng phải là người ăn chay.

 

 

 

But I think the hog factories described in “Wastelands” and the similar CAFOs in other states are forms of systematic animal cruelty.

 

Song tôi cho rằng những nhà máy chăn nuôi sản xuất lợn được miêu tả trong “Wastelands” và các CAFO tương tự ở những bang khác là những hình thức hành động tàn ác đối với động vật một cách có hệ thống.

 

 

 

They are crimes against nature.

 

Chúng là tội ác chống lại thiên nhiên.

 

 

 

Hogs are intelligent and sensitive creatures capable of multistage reasoning like dolphins and apes, with a social structure similar to that of elephants.

 

Lợn là sinh vật thông minh và nhạy cảm, có khả năng tư duy logic chuỗi như cá heo và vượn, với cấu trúc xã hội tương tự như cấu trúc xã hội của loài voi.

 

 

 

Hogs can recognize themselves in a mirror, differentiate one person from another, remember negative experiences.

 

Lợn có thể nhận ra mình trong gương, phân biệt người này với người khác, ghi nhớ những trải nghiệm tiêu cực.

 

 

 

And they like to be clean.

 

Và chúng thích sạch sẽ.

 

 

 

Their lives in hog factories scarcely resemble how they’ve been raised for millenniums.

 

Cuộc sống của chúng trong các nhà máy chăn nuôi sản xuất lợn hầu như chẳng có gì giống với cái cách chúng từng được nuôi dưỡng trong nhiều thiên niên kỷ.

 

 

 

They arrive as small piglets, live crammed together amid one another’s filth and leave a few months later for the slaughterhouse — never having enjoyed a moment outdoors during their entire time at the shed.

 

Chúng ra đời là những chú lợn con bé nhỏ, sống chen chúc nhau giữa đống phế thải của nhau và sau đó vài tháng đi đến lò mổ – chúng chưa từng được hưởng giây phút nào ở ngoài trời trong suốt thời gian ở chuồng trại.

 

 

 

The foulness of these places, for the animals that live in them and the people who live near them, truly defies words.

 

Tình trạng hôi hám dơ bẩn của những nơi này, đối với những con vật sống trong đó và những người sống gần chúng, quả thực là không lời nào diễn tả được.

 

 

 

Corban Addison hasn’t written a polemic about hog factories, like my paragraph above.

 

Corban Addison đã không viết một bài luận chiến về những nhà máy chăn nuôi sản xuất lợn, như đoạn văn bên trên của tôi.

 

 

 

He has calmly assembled a legal thriller, full of energy and compassion, that addresses issues of real importance, like the works of John Grisham and Scott Turow.

 

Anh đã bình tĩnh lắp ghép một bộ phim hình sự pháp lý, đầy những hoạt động tích cực và lòng trắc ẩn, nó xử lý những vấn đề thực sự quan trọng, giống như các tác phẩm của John Grisham và Scott Turow.

 

 

 

Grisham wrote the foreword to this book, and in it, he says:

 

Grisham đã viết lời tựa cho cuốn sách này, và trong đó, ông phát biểu:

 

 

 

“Beautifully written, impeccably researched, and told with the air of suspense that few writers can handle, ‘Wastelands’ is a story I wish I had written.”

 

“Được viết rất hay, được nghiên cứu hoàn hảo và được kể lại bằng giọng điệu hồi hộp mà rất ít nhà văn có thể làm được, ‘Wastelands’ là một câu chuyện mà tôi ước gì mình đã viết.”

 

 

 

I agree with Grisham.

 

Tôi đồng ý với Grisham.

 

 

 

But I wish that “Wastelands” were a work of dystopian science fiction, not a damning portrait of how we feed ourselves now.

 

Song tôi những ước rằng “Wastelands” là một tác phẩm khoa học viễn tưởng về bất công xã hội, chứ không phải là một hình tượng đáng nguyền rủa của cái cách chúng ta cung cấp thức ăn cho chính bản thân mình hiện thời.


WASTELANDS: The True Story of Farm Country on Trial, by Corban Addison | 464 pp. | Alfred A. Knopf | $30

1 Comments

Tin liên quan

    Tài chính

    Trung Quốc