| How Four Female
  Philosophers Responded to a Dire Decade |   | Bốn nữ triết gia chống
  lại một thập kỷ khốc liệt như thế nào? | 
 
  |   |   | 
 
 | 
 
  | “The Visionaries,”
  by Wolfram Eilenberger, examines the divergent theories of self and other
  developed in a time of crisis by Hannah Arendt, Simone de Beauvoir, Ayn Rand
  and Simone Weil. |   | Cuốn “The Visionaries” (Những người
  nhìn xa) của tác giả Wolfram
  Eilenberger nghiên
  cứu những lý thuyết khác nhau về bản thân và người
  khác được Hannah Arendt, Simone de Beauvoir, Ayn Rand và Simone Weil tạo nên trong thời
  đại khủng hoảng. | 
 
  |   |   |   | 
 
  | If hell is other
  people, then so, too, is this world. |   | Nếu người khác
  là kẻ “quỷ tha ma bắt” thì thế giới này cũng vậy. | 
 
  |   |   |   | 
 
  | Accepting the
  reality of others can take time. |   | Chấp
  nhận người khác có thể mất thời gian. | 
 
  |   |   |   | 
 
  | During a general
  strike in France in 1934, Simone de Beauvoir felt no particular urge to stand
  in solidarity with workers, including her colleagues at the lycée where she
  was teaching. |   | Trong cuộc tổng đình công tại Pháp năm 1934, Simone de Beauvoir không có cảm giác thôi thúc
  đặc biệt muốn đoàn
  kết với công nhân, kể cả với đồng nghiệp của bà tại trường trung học nơi bà đang giảng
  dạy. | 
 
  |   |   |   | 
 
  | “The existence of
  Otherness remained a danger to me,” she later recalled. |   | “Sự tồn tại của Người
  khác vẫn là mối nguy hiểm đối với tôi,” sau này bà kể lại. | 
 
  |   |   |   | 
 
  | “Around us other
  people circled, pleasant, odious or ridiculous: |   | “Xung quanh chúng ta có bao người vây quanh, dễ chịu, đáng ghét hoặc lố bịch: | 
 
  |   |   |   | 
 
  | They had no eyes
  with which to observe me. |   | Họ không có mắt để quan sát tôi. | 
 
  |   |   |   | 
 
  | I alone could
  see.” |   | Chỉ mình tôi có thể nhìn thấy được.” | 
 
  |   |   |   | 
 
  | It’s a quote that
  Wolfram Eilenberger uses to potent effect in “The Visionaries,” which traces
  the lives of four philosophers in the tumultuous decade before 1943. |   | Đó là trích dẫn tác
  giả Wolfram Eilenberger sử dụng mang tính thuyết phục mạnh trong cuốn “The
  Visionaries”, kể về cuộc đời của bốn triết gia trong thập kỷ đầy biến động
  trước năm 1943. | 
 
  |   |   |   | 
 
  | His previous book,
  the marvelous “Time of the Magicians,” was about Heidegger, Wittgenstein,
  Walter Benjamin and Ernst Cassirer in the decade after World War I; his new
  book, translated from the German by Shaun Whiteside, can be read as a sequel
  of sorts. |   | Cuốn sách trước của tác
  giả, “Time
  of the Magicians”
  (Thời đại của các pháp sư), viết về Heidegger, Wittgenstein, Walter Benjamin và
  Ernst Cassirer trong thập kỷ sau Thế chiến I; cuốn sách mới của ông, được Shaun
  Whiteside chuyển ngữ
  từ tiếng Đức, có thể được coi như phần tiếp theo. | 
 
  |   |   |   | 
 
  | The quartet this
  time is composed of four women, all in their 20s when the book begins in
  earnest, in 1933, their most productive years still ahead of them. |   | Bộ tứ lần này là bốn
  phụ nữ, tất cả đều ở độ tuổi 20 khi cuốn sách thực sự bắt đầu, năm 1933, những năm tháng làm việc sôi nổi nhất
  của họ vẫn còn ở phía trước. | 
 
  |   |   |   | 
 
  | Beauvoir, Simone
  Weil, Hannah Arendt and Ayn Rand: Each addressed the foundational question of
  the relationship between the self and others, between “I” and “we,” only to
  arrive at wildly different conclusions. |   | Beauvoir, Simone Weil, Hannah Arendt và Ayn Rand: Mỗi người đều
  giải quyết câu hỏi căn
  bản về mối quan hệ giữa bản thân và những người khác, giữa “tôi”
  và “chúng ta”, để rồi đi
  đến kết
  luận rất
  khác nhau. | 
 
  |   |   |   | 
 
  | Their
  philosophical searching began, Eilenberger says, with an “honest bafflement
  that other people live as they do” — a feeling of separation, or
  estrangement, from the world. |   | Tác giả Eilenberger
  cho hay,
  cuộc tìm kiếm triết học của họ bắt đầu với “nỗi hoang mang chân thực rằng những
  người khác cũng sống như họ” — cảm giác tách biệt, hoặc xa lạ, với thế giới. | 
 
  |   |   |   | 
 
  | Beauvoir was
  teaching at the lycée in Rouen, having rejected the respectable life of
  marriage and family that her parents wanted for her; her main emotions at the
  time were boredom with her work and a general revulsion for the “bourgeois
  order.” |   | Beauvoir khi ấy
  đang giảng dạy tại trường trung học ở Rouen, từ chối cuộc sống hôn nhân
  và gia đình hợp
  khuôn phép mà cha mẹ mong muốn; cảm xúc lớn nhất của bà khi đó
  là chán nản công việc và nỗi ghê tởm chung đối với “trật tự tư sản.” | 
 
  |   |   |   | 
 
  | Arendt, by
  contrast, was facing not boredom but terror; in May 1933, she was eating
  breakfast with her mother at a Berlin cafe when they were thrown into a car
  and interrogated by the Gestapo. |   | Ngược lại, Arendt không phải đối mặt với buồn chán mà là nỗi kinh hoàng;
  tháng 5 năm 1933, khi
  đó bà đang ăn sáng với mẹ tại một quán cà phê ở Berlin thì họ bị
  Gestapo tống vào ô tô thẩm vấn. | 
 
  |   |   |   | 
 
  | After their
  release, they fled Nazi Germany and made their way to Paris. |   | Sau khi được thả, họ trốn khỏi Đức Quốc xã và tìm đường đến
  Paris. | 
 
  |   |   |   | 
 
  | Weil, also known
  as “Red Simone,” was horrified by Stalinism; she fell into arguments with her
  communist comrades, who were scandalized by her socialist insistence that “we
  should assign the highest value to the individual, not the collective.” |   | Weil, còn được gọi là “Simone đỏ,” thì
  kinh hoàng với chủ
  nghĩa Stalin; bà tranh
  cãi với các đồng chí cộng sản của mình, họ bị xúc phạm bởi bà khăng
  khăng theo
  quan điểm chủ nghĩa xã hội “chúng ta nên gán giá trị cao nhất
  cho cá nhân, chứ
  không phải tập thể.” | 
 
  |   |   |   | 
 
  | And the
  Russian-born Rand, living in Hollywood and New York during the early years of
  the New Deal, was working on a novel about “the individual against the
  masses,” or what she called “the greatest problem of our century — for those
  who are willing to realize it.” |   | Và Rand sinh ra ở Nga, sống tại Hollywood và New York trong những năm đầu thời Chính sách Kinh tế Mới, khi ấy bà đang viết cuốn tiểu thuyết về
  “cá nhân chống lại đám
  đông” hay cái bà gọi là “vấn đề lớn nhất của thế kỷ chúng ta — đối với những
  người sẵn sàng nhận ra vấn
  đề đó.” | 
 
  | 
 |   |   | 
 
  | Rand is the id of
  this book — proudly selfish and grandiose, supremely confident of her own
  importance and mercilessly disdainful of others. |   | Rand là cái bản
  năng của cuốn sách này — ích kỷ và kiêu ngạo đến độ kiêu hãnh,
  cực kỳ tự tin về tầm quan trọng của bản thân và coi thường người khác một
  cách không thương tiếc. | 
 
  |   |   |   | 
 
  | Despite her
  adamant elitism, she poured her efforts into novels and screenplays, pursuing
  precisely those forms of mass entertainment that would allow her to reach the
  very public she derided. |   | Mặc dù theo chủ
  nghĩa tinh hoa cứng
  rắn, bà
  vẫn dồn sức
  vào tiểu thuyết và kịch bản, theo đuổi chính những hình thức giải trí đại
  chúng cho phép bà tiếp cận chính đám đông mà bà chế nhạo. | 
 
  |   |   |   | 
 
  | In 1941 she wrote
  an open letter to Americans that began by insulting them: |   | Năm 1941, bà viết bức thư ngỏ gửi người Mỹ bắt đầu bằng cách xúc phạm họ: | 
 
  |   |   |   | 
 
  | “You who read this
  represent the greatest danger to America,” she declared, before telling that
  “you” what to do (“defend the only true anti-Totalitarian principle, the
  principle of individual rights”). |   | “Bạn, người
  đọc bức thư này, đại diện
  cho mối nguy hại lớn nhất đối với nước Mỹ,” bà tuyên bố, trước khi bảo “bạn” phải
  làm gì (“bảo vệ nguyên tắc duy nhất chống Toàn trị thực sự, nguyên tắc về quyền
  cá nhân”). | 
 
  |   |   |   | 
 
  | It’s
  understandable that Eilenberger peppers his paraphrases of Rand’s thoughts
  with exclamation points: |   | Có thể hiểu vì
  sao tác giả Eilenberger rắc thêm vào những đoạn diễn giải tư tưởng của Rand bằng
  dấu chấm than: | 
 
  |   |   |   | 
 
  | “Anything but
  mediocrity! |   | “GÌ cũng được
  ngoại trừ tầm thường! | 
 
  |   |   |   | 
 
  | Anything but
  modesty!” |   | Gì cũng được ngoại
  trừ khiêm tốn!” | 
 
  |   |   |   | 
 
  | At the other
  extreme from Rand is Weil — not the book’s superego but its self-abnegating
  martyr. |   | Ở thái cực ngược
  lại với Rand là Weil — không phải cái siêu tôi của cuốn sách mà là kẻ xả thân tử vì đạo của
  nó. | 
 
  |   |   |   | 
 
  | Tiny and sickly,
  she demanded to work in factories in order to have “direct contact with
  life,” finding the jobs so depleting and soul-crushing that she ended her
  yearlong stint on the assembly line even frailer than before. |   | Nhỏ bé và ốm yếu, bà
  yêu cầu được làm việc trong nhà máy để có thể “tiếp xúc trực tiếp với cuộc sống,” rồi nhận thấy
  công việc khiến bà kiệt
  sức và tan nát tâm hồn đến độ bà kết thúc công việc kéo dài một năm trên băng chuyền ở trạng thái thậm chí còn yếu
  ớt hơn
  trước. | 
 
  |   |   |   | 
 
  | But she continued
  to insist on the kind of exertion and risk for which she was evidently
  unsuited. |   | Nhưng bà vẫn
  tiếp tục khăng
  khăng gắng sức và mạo hiểm dù rõ ràng bà không phù hợp. | 
 
  |   |   |   | 
 
  | After heading to
  the front in the Spanish Civil War, Weil lasted all of six weeks. |   | Sau khi ra tiền
  tuyến trong Nội chiến Tây Ban Nha, Weil chịu được sáu tuần. | 
 
  |   |   |   | 
 
  | Given her extreme
  nearsightedness, her comrades didn’t want to issue her a rifle, fearing she
  would put not only herself but others in harm’s way. |   | Vì bà bị cận thị nặng nên đồng đội không muốn cấp cho bà súng trường, lo sợ bà sẽ không chỉ
  gây nguy hiểm cho bản thân mà còn cho người khác. | 
 
  |   |   |   | 
 
  | She didn’t end up
  needing to use one anyway; her parents took her back to Paris with severe
  burns on her left leg after she stepped into a pot of boiling oil. |   | Dù sao thì rốt
  cuộc bà cũng không cần sử dụng đến súng; bố mẹ đón bà trở lại
  Paris với vết bỏng nặng trên chân trái sau khi bà dẫm phải nồi dầu sôi. | 
 
  |   |   |   | 
 
  | Somewhere between
  the book’s poles of Rand and Weil are Beauvoir and Arendt. |   | Ở đâu đó giữa hai thái
  cực Rand và Weil là Beauvoir và Arendt. | 
 
  |   |   |   | 
 
  | Beauvoir had met
  Weil as a fellow pupil at the Sorbonne and considered her the “great other” —
  what with Weil’s “bizarre get-up” and a “heart that could beat right across
  the world.” |   | Beauvoir từng quen Weil khi còn là bạn học tại Sorbonne và coi bà ấy là
  “người khác tuyệt vời”— bởi
  vì “bộ trang phục kỳ lạ” và “trái tim có thể đập khắp thế
  giới” của Weil. | 
 
  |   |   |   | 
 
  | Eilenberger points
  to their divergent responses to the Spanish Civil War. |   | Tác giả Eilenberger
  chỉ ra phản ứng khác nhau của họ đối với Nội chiến Tây Ban Nha. | 
 
  |   |   |   | 
 
  | Like Weil,
  Beauvoir also considered the war to be something that “concerned us so
  deeply,“ the “us” being her and Sartre, her lifelong lover and companion. |   | Giống như Weil, Beauvoir cũng coi chiến tranh là điều gì đó “làm chúng tôi kinh sợ sâu sắc,” cái “chúng tôi” ấy là bà cùng Sartre,
  người tình và người bạn đồng hành suốt đời của bà. | 
 
  |   |   |   | 
 
  | But she despaired
  of their “political impotence.” |   | Nhưng bà thất
  vọng với “sự bất lực chính trị” của họ. | 
 
  |   |   |   | 
 
  | What Weil had done
  wasn’t an option: |   | Những gì Weil đã làm không phải là lựa chọn: | 
 
  |   |   |   | 
 
  | “There was no
  question of our going off to Spain ourselves.” |   | “Không có khả
  năng chính chúng tôi đi tới Tây Ban Nha.” | 
 
  |   |   |   | 
 
  | For Arendt, even
  “political impotence” would have been an understatement. |   | Đối với Arendt, cụm
  từ “sự bất lực về chính trị” đã là giảm nhẹ so với thực tế. | 
 
  |   |   |   | 
 
  | In 1937, she was
  stripped of her German citizenship and became a “stateless person.” |   | Năm 1937, bà bị tước quyền công dân Đức và trở thành "người không quốc
  tịch.” | 
 
  |   |   |   | 
 
  | She would go on to
  grapple with questions of political community and human rights; she
  experienced firsthand how the vaunted political theories of her time were
  unequipped to deal with someone like her, a refugee — a person who, as
  Eilenberger puts it, was deprived of “the right to have rights at all.” |   | Bà tiếp tục vật lộn với những câu hỏi về cộng đồng chính trị
  và nhân quyền; bà trực
  tiếp trải nghiệm vấn
  đề mà lý thuyết chính trị được ca tụng ở thời đại của bà không đủ trang bị để
  đối phó với một người như bà, một
  người tị nạn — một
  người, như tác giả Eilenberger
  mô tả,
  đã bị tước đoạt “tất cả các quyền.” | 
 
  |   |   |   | 
 
  | Eilenberger is an energetic
  guide to these philosophers’ ideas, though it’s clear that he holds Weil’s
  writings in special esteem. |   | Tác giả Eilenberger
  là người hướng dẫn đầy nhiệt huyết đối với tư tưởng của các triết gia này,
  dù rõ ràng ông đặc biệt coi
  trọng tác phẩm của Weil. | 
 
  |   |   |   | 
 
  | Her thinking
  became increasingly mystical and religious: |   | Tư tưởng của bà
  ngày càng trở nên huyền bí và tôn giáo: | 
 
  |   |   |   | 
 
  | “Man is a social
  animal,” she asserted, “and the social element represents evil.” |   | “Con người là động vật xã hội,” bà khẳng định, “và yếu tố xã hội
  đại diện cho cái ác.” | 
 
  |   |   |   | 
 
  | As a result, she
  concluded, “this world is uninhabitable.” |   | Do đó, bà kết
  luận, “thế giới này không thể ở được.” | 
 
  |   |   |   | 
 
  | Insisting on “I”
  was pointless. |   | Khẳng định
  “tôi” là vô nghĩa. | 
 
  |   |   |   | 
 
  | So was insisting
  on “we.” |   | Kể cả khẳng định “chúng ta.” | 
 
  |   |   |   | 
 
  | Where
  Kierkegaard’s famous “Either/Or” presented the dilemma between self and other
  as an existential choice about how to live, Weil responded by renouncing it:
  not I, and not we — neither/nor. |   | Khi tác phẩm “Either/Or” (Hoặc là hoặc là) nổi
  tiếng của Kierkegaard trình bày song đề giữa bản thân và người khác như một lựa chọn
  mang tính hiện sinh về cách sống, Weil đáp lại bằng cách chối bỏ nó: không
  phải tôi, và không phải chúng ta — neither/nor
  (Không là không là). | 
 
  |   |   |   | 
 
  | “The Visionaries”
  ends with Weil’s death in a British sanitarium, in 1943; the official cause
  was listed as “cardiac failure.” |   | Cuốn “The
  Visionaries” kết thúc bằng cái chết của Weil trong viện điều dưỡng ở Anh năm
  1943; nguyên nhân chính thức được ghi nhận là “suy tim.” | 
 
  |   |   |   | 
 
  | She had also
  stopped eating, asking her nurses to send the milk she was supposed to drink
  to people starving in France. |   | Bà cũng
  đã ngừng ăn, yêu cầu y tá gửi sữa mà lẽ ra bà phải uống cho những người
  đang chết đói ở Pháp. | 
 
  |   |   |   | 
 
  | The coroner’s
  report includes a postscript: |   | Báo cáo của nhân viên điều tra có phần tái bút: | 
 
  |   |   |   | 
 
  | “The deceased did
  kill and slay herself by refusing to eat whilst the balance of her mind was
  disturbed.” |   | “Người quá cố đã tự kết
  liễu bản thân bằng cách từ chối ăn uống trong khi tâm
  trí xáo trộn.” | 
 
  |   |   |   | 
 
  | Reading
  Eilenberger’s account, I felt both moved and confounded by some of Weil’s
  doomed commitments. |   | Đọc lời kể của tác
  giả Eilenberger, tôi thấy vừa xúc động vừa bối rối với một số quyết tâm không thành của
  Weil. | 
 
  |   |   |   | 
 
  | But then, he might
  say that in my “honest bafflement” I was looking to the “great other” for
  something more familiar to me than she could ever provide. |   | Nhưng rồi, ông ấy có thể nói
  rằng trong “nỗi hoang mang thực sự” của
  tôi, tôi đang tìm ở
  “người khác tuyệt vời” điều gì đó quen thuộc hơn với tôi chứ không phải thứ bà ấy có
  thể cho được. | 
Post a Comment