Bài học từ cuộc nội chiến Hoa Kỳ
"Sau này khi viết về văn bản đầu hàng, lịch sử ghi rằng đây là thỏa hiệp của những người quân tử (The Gentlement Agreement). Trên các bảo tàng viện và đặc biệt là bảo tàng viện ở Appomattox Virginia có tranh sơn dầu hình tướng Lee hiên ngang quắc thước trong bộ quân phục xanh dương, tóc và râu bạc, thể hiện hình ảnh người Mỹ anh hùng không bị khuất phục dù thua trận. Toàn thể nước Mỹ hiểu rằng khi một người Mỹ bị nhục, thì dù là Mỹ miền Nam hay Mỹ miền Bắc cũng là một người Mỹ bị sỉ nhục."
Tháng 4 của Hoa Kỳ cũng là một ngày tháng đáng lưu ý của lịch sử.
Cuộc nội chiến Nam Bắc Hoa Kỳ bắt đầu vào ngày 12 tháng 4-1861. Bốn năm sau vào ngày 9 tháng 4-1865, tướng Lee của miền Nam đầu hàng tướng Grant của miền Bắc.
Cuộc chiến tranh với hàng trăm trận đánh tại miền Ðông Hoa Kỳ trong trọn vẹn 4 năm đã làm cho quân hai bên chết 620 ngàn và hàng triệu người bị thương tích. Miền Bắc thắng trận, thống nhất đất nước, giải phóng nô lệ và hy sinh thêm vị anh hùng Mỹ quốc. Ðó là tổng thống Lincoln.
Trong trận đánh cuối cùng, quân miền Bắc chiếm được Richmond là thủ đô của miền Nam vào ngày 2 tháng 4-1865. Hai ngày sau tổng thống Lincoln của Hoa Thịnh Ðốn đến thị sát Richmond, bước vào dinh tổng thống miền Nam đã bỏ chạy. Tiếp theo là tướng Lee đầu hàng ngày 9 tháng 4 và vào ngày 15 tháng 4-1865, tổng thống Lincoln bị ám sát chết.
Vị tổng thống thứ 16 trở thành vĩ nhân thống nhất đất nước và giải phóng nô lệ nhưng chỉ vui với chiến thắng chưa được một tuần lễ.
Ða số thính giả và độc giả của Dân Sinh cả báo lẫn đài, dù đã mang quốc tịch Mỹ nhưng vẫn nhớ về quốc tổ, về Trưng Vương và các anh hùng dân tộc Việt Nam. Có lẽ sau 30 năm tỵ nạn, di dân Lạc Hồng tại Hoa Kỳ mang quốc tịch Mỹ, chúng ta cũng cần biết thêm chút lịch sử của Hiệp Chủng Quốc với các dữ kiện căn bản của chương trình trung học.
Số là sau chiến tranh dành độc lập, Mỹ thắng Anh trở thành Hoa Kỳ với tổng thống Washington thì tiếp theo đến trận nội chiến chia đôi Nam Bắc là một vết thương đau đớn nhất.
Vào thời kỳ đó, nước Mỹ gồm các tiểu bang Ðông Bắc có thủ đô Hoa Thịnh Ðốn chủ trương giải phóng nô lệ. Tổng thống Hoa Kỳ là luật sư Lincoln tuyên bố quốc gia không thể có hai luật, một nửa có nô lệ, một nửa không.
Quân chính phủ miền Bắc gọi là quân đội Potomac, lấy tên của dòng sông diễm lệ chạy qua thủ đô. Các tiểu bang miền Nam sống về canh nông quyết đòi giữ lại chế độ nô lệ để khai thác cho nông nghiệp. Tổng thống miền Nam là ông Davis. Thủ đô là Richmond và quân đội do tướng Lee chỉ huy được gọi là quân đội Virginia.
Nội chiến xảy ra trong hai nhiệm kỳ của ông Lincoln từ 1861 đến 1865 với hai vị tướng chỉ huy sau cùng là tướng Ulysses S. Grant của miền Bắc và tướng Robert E. Lee của miền Nam. Tuy miền Nam với các tiểu bang ly khai cũng bầu ra một tổng thống là ông Jefferson Davis nhưng nhân vật anh hùng miền Nam là tướng Lee.
Khi cuộc chiến Nam Bắc bùng nổ, nước Mỹ chia đôi. 11 tiểu bang miền Nam ly khai với 9 triệu dân và thêm 4 triệu dân nô lệ da đen. Chính phủ liên bang Hoa Kỳ còn lại 21 tiểu bang miền Bắc với 20 triệu dân.
Ông Robert Lee nguyên là tướng lãnh của quân đội Hoa Kỳ nhưng gốc người miền Nam. Ông đã từng là chỉ huy trưởng trường West Point.
Tháng 4-1861 khởi chiến Nam Bắc, tướng Lee được đề nghị chỉ huy quân đội miền Bắc nhưng ông không nhận và xin từ nhiệm để về đầu quân miền Nam tại Richmond, tiểu bang Virginia. Ông nói là không thể quay lưng với nơi ông đã sinh ra và trưởng thành.
Trong chiến tranh, ông lập được nhiều chiến công và là vị tư lệnh sau cùng của miền Nam đã quyết định đầu hàng.
Khi thủ đô Richmond của chính phủ miền Nam bị thất thủ, các sĩ quan đề nghị rút vào rừng đánh du kích nhưng tướng Lee không chấp nhận.
Cuộc chiến tranh tương tàn đẫm máu làm tổn hại hàng triệu sinh linh Hoa Kỳ, tan nát các đô thị miền Ðông và vùng Virginia. Tất cả đã thể hiện trong tác phẩm và cuốn phim bất hủ Cuốn Theo Chiều Gió mà chúng ta đã đọc cũng như coi nhiều lần suốt thời niên thiếu.
Ngay cho đến bây giờ, tác phẩm này vẫn còn là loại tài liệu được đem dạy ở trường học với sự say mê và hãnh diện của nhiều thế hệ Hoa Kỳ.
Ðó là những bài học gì mà chiến tranh, giết người, đốt nhà, nồi da nấu thịt đã đem lại cho thế hệ nối tiếp. Chúng tôi xin duyệt lại cùng quý vị câu chuyện hậu chiến Hoa Kỳ để so sánh với bài học chiến tranh Việt Nam.
Trước tiên bắt đầu về câu chuyện đầu hàng. Sau chiến tranh, nước Mỹ sưu tầm và dựng lên khắp miền Ðông hàng trăm viện bảo tàng. Mỗi tiểu bang ít nhất là một viện bảo tàng. Mỗi trận đánh trên trận địa xưa cũ với các di tích đều có một viện bảo tàng.
Bằng hội họa, nhiếp ảnh, dữ kiện, thêm vào âm thanh ánh sáng người ta dựng lại lịch sử các cuộc thương thuyết, các cuộc điều binh và các trận liệt. Quân hai bên Nam Bắc, quân xanh, quân đỏ, các tướng lãnh, sĩ quan, binh sĩ và dân chúng. Những cái chết đau thương và anh hùng của cả hai bên, những mối tình bất hủ, tràn đầy hình ảnh em hậu phương, anh tiền tuyến.
Không phải hàng trăm mà có đến hàng ngàn tác phẩm điện ảnh về chiến tranh Nam Bắc. Cả những phim vĩ đại mới ra đời trong vài năm gần đây vẫn còn hình ảnh của cuộc nội chiến ngày xưa.
Cuộc nội chiến đau thương xưa cũ đã là niềm cảm hứng cho tinh thần nhân bản xây dựng trên tro tàn của một thời nội chiến Hoa Kỳ.
Xin nhắc lại một lần nữa, bài học phải bắt đầu từ câu chuyện đầu hàng.
Ðúng như vậy, trong hàng trăm bảo tàng viện về Civil War của Hoa Kỳ, thì viện bảo tàng Appomattox Court House ở Virginia là nơi nổi tiếng nhất vì dựng lên ngay tại ngôi nhà tướng Lee đã đến ký văn bản đầu hàng ngày 9 tháng 4-1865.
Tại đây, câu chuyện về vị tướng phe bại trận miền Nam lại được viết ra và hình ảnh của ông lại được chiêm ngưỡng nhiều hơn cả phe thắng trận.
Lịch sử ghi lại rằng vào sáng ngày 9 tháng 4 cách đây 140 năm, thủ đô miền Nam là Richmond thất thủ, kỵ binh của miền Bắc cùng với 3 quân đoàn bộ binh vây hãm quân miền Nam hết đường tháo lui.
Bộ tham mưu của tướng Lee đề nghị phân tán để giữ lực lượng đánh du kích, nhưng tướng Lee quyết định đầu hàng. Vị danh tướng của Hoa Kỳ trải qua bao nhiêu chiến thắng nhưng sau cùng vì quân số và tiếp vận bị giới hạn nên đành bất lực chấp nhận thua cuộc. Với lá thư riêng ông gửi cho tướng Grant của miền Bắc yêu cầu thu xếp buổi họp mặt.
Ông Grant nhận được thư hết sức vui mừng và bỗng nhiên thấy hết ngay cơn bệnh nhức đầu ghê gớm hành hạ ông từ nhiều ngày qua.
Vị tư lệnh miền Bắc ra lệnh nghiêm cấm các sĩ quan và binh sĩ trực thuộc không được tỏ ra bất cứ hành động nào vô lễ với ông tướng tư lệnh miền Nam bại trận.
Trưa ngày lịch sử 9 tháng 4-1865, tướng Lee và một đại tá tùy tùng cưỡi ngựa vượt qua phòng tuyến đến nơi hẹn ước. Hình ảnh ghi lại hai người đi qua đoàn quân nhạc của lính miền Bắc thổi kèn chào đón. Các sĩ quan miền Bắc đưa vị tư lệnh miền Nam vào phòng họp. Nửa giờ sau tướng Grant và đoàn tùy tùng miền Bắc đến.
Cả hai vị tư lệnh đã biết nhau trong cuộc chiến tranh với Mễ Tây Cơ. Họ đã nhắc lại một thời bên nhau trong quá khứ. Tướng Grant sau này thú nhận là ông rất ngần ngại và thực sự hổ thẹn khi phải hỏi tướng Lee nói về quyết định đầu hàng.
Theo quy luật chiến tranh thời đó, quân miền Nam phải giải giới, tước bỏ khí giới và quân dụng. Tự do trở về quê cũ như các dân thường. Tướng Lee đồng ý nhưng chỉ đòi hỏi một điều sau cùng là yêu cầu cho binh sĩ của ông được giữ lại lừa ngựa, vì lính miền Nam đem ngựa từ các nông trại của họ đi chiến đấu. Không phải ngựa của chính phủ như lính miền Bắc.
Tướng Grant thỏa hiệp là sẽ không sửa chữa chính thức trên văn bản nhưng thực tế sẽ cho lệnh để lính miền Nam đem lừa ngựa về nhà mà xây dựng lại nông trại.
Sau này khi viết về văn bản đầu hàng, lịch sử ghi rằng đây là thỏa hiệp của những người quân tử (The Gentlement Agreement). Trên các bảo tàng viện và đặc biệt là bảo tàng viện ở Appomattox Virginia có tranh sơn dầu hình tướng Lee hiên ngang quắc thước trong bộ quân phục xanh dương, tóc và râu bạc, thể hiện hình ảnh người Mỹ anh hùng không bị khuất phục dù thua trận. Toàn thể nước Mỹ hiểu rằng khi một người Mỹ bị nhục, thì dù là Mỹ miền Nam hay Mỹ miền Bắc cũng là một người Mỹ bị sỉ nhục.
Thực vậy, 140 năm sau, chúng tôi đi thăm viện bảo tàng đầu hàng, cô Mary quản thủ cơ sở đã nói rằng dù hình ảnh của miền Nam hay miền Bắc, lịch sử không muốn ghi lại các hình ảnh xấu xa của bất cứ phe nào.
Ở đây là nơi lưu giữ hình ảnh của các anh hùng miền Nam lẫn miền Bắc. Ðặc biệt là hình ảnh của phe bại trận lại được lưu ý hơn cả phe chiến thắng. Lá cờ rách của miền Nam thua trận treo tại thủ đô Richmond bây giờ lại là bảo vật hào hùng của bảo tàng viện đầu hàng.
Và hình tướng Lee cưỡi ngựa đi đến nơi họp mặt với đoàn quân nhạc miền Bắc chào đón. Hình tướng Lee ký tên xong ra đi được sĩ quan và binh sĩ miền Bắc tiễn đưa và vẫy tay chào.
Bây giờ hình tượng của tướng Lee tràn ngập ở miền Nam Virginia. Câu lạc bộ Lee, bảo tàng viện Lee, Fort Lee và các đồn trại của quân đội liên bang mang tên vị tướng thua trận như là một biểu tượng anh hùng. Bởi vì người Mỹ đã thấm nhuần bài học rất Hoa Kỳ. Bài học của người lính dũng cảm cả hai phe trong chiến tranh và người quân tử của thời hậu chiến.
Bài học thứ hai, chúng tôi xin kể thêm về vấn đề nghĩa trang và mộ phần của các liệt sĩ phe chiến bại tại Hoa Kỳ.
Tại nước Mỹ có một nghĩa trang quốc gia nổi tiếng khắp thế giới. Ðó là nghĩa trang Arlington. Ðây là nghĩa trang chính thức của liên bang Hoa Kỳ, của người miền Bắc trong trận chiến Bắc Nam.
Sau cuộc nội chiến, các tiểu bang miền Nam có hàng ngàn nghĩa trang lớn nhỏ chôn cất tử sĩ của phe bại trận và trên đó luôn luôn có lá cờ gạch chéo đã một thời tung hoành trên chiến trường.
Ngay sau khi chiến tranh chấm dứt, hoàn toàn không có tù binh, không có cải tạo tập trung, ai về nhà đó, cùng xây dựng lại quê hương.
Nghĩa trang bên nào bên đó tự lo lấy, xấu đẹp tùy sức. Nhưng điều đáng ngạc nhiên là ngay tại nghĩa trang quốc gia của phe miền Bắc ở thủ đô Hoa Thịnh Ðốn có một khu chôn cất tử sĩ miền Nam với tượng đài gọi là Confederate Memorial.
Cũng phải nói rằng, thực sự sau nội chiến, dư vị cay đắng giữa Nam Bắc Hoa Kỳ vẫn còn nhiều. Dễ gì mà trút bỏ hận thù ngay sau khi hai bên chết cả gần một triệu người mà một số lớn đã giết nhau khi giáp mặt bằng gươm dao. Hai phe cùng đốt nhà của nhau và cùng tàn phá đô thị và nông trại, đôi khi có cả những hành động dã man như hãm hiếp và tàn sát trẻ em. Cuộc chiến nào mà không có những lần quá độ.
Tuy nhiên, sau chiến tranh Nam Bắc, Hoa Kỳ lại xảy ra chiến tranh với Mễ Tây Cơ nên hai miền hận thù có dịp gần nhau và hàn gắn lại mối thương đau.
Năm 1900 tức là hơn 40 năm sau cuộc chiến, mở đầu cho giai đoạn hòa giải dân tộc và năm 1901 thì các liệt sĩ miền Nam được cải táng đưa vào một khu đặc biệt trong nghĩa trang Arlington gọi là Confederate Section. Tổng cộng gần 500 mộ phần quây tròn chung quanh một tượng đài do nhà tạc tượng danh tiếng là điêu khắc gia Moses Ezekiel thực hiện.
Trên đỉnh của chân bệ hình vòng cung như nóc Tòa Quốc Hội là hình tượng cao 32 feet của một thiếu phụ tượng trưng cho miền Nam. Ðây là hình ảnh bà mẹ của phe bại trận đã có con trai hy sinh cho cuộc chiến. Phía dưới là bài thơ đại ý như sau:
"Ở đây chẳng có vinh quang hay tưởng lệ.
Ở đây chẳng phải binh đoàn hay cấp bậc.
Ở đây chẳng có tham vọng hay mưu cầu.
Ở đây chỉ đơn thuần là nhiệm vụ.
Những người nằm ở đây đã hiểu rõ
là họ trải qua gian khổ, đã hy sinh
đã liều thân và sau cùng đã chết."
Ðó là câu chuyện về các tử sĩ của phe thua trận tại Hoa Kỳ.
Cũng chẳng khác gì vần thơ bất hủ của Thanh Nam dành cho Nghĩa Trang Quân Ðội miền Nam tại Biên Hòa.
… Ta như người lính vừa thua trận
Nằm giữa sa trường nát gió mưa
Khép mắt cố quên đời chiến sĩ
Làm thân cây cỏ gục ven bờ
Chợt nghe từ đáy hồn thương tích
Vẳng tiếng kèn truy điệu mộng xưa…
* * *
Chúng tôi có một ông bạn làm thông dịch viên cho Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ vẫn có dịp hướng dẫn cho các nhân viên cao cấp của Hà Nội đến Thủ Ðô Hoa Thịnh Ðốn. Tôi vẫn thường bảo rằng ông nên dẫn khách lúc rảnh rỗi đi thăm bảo tàng viện "Ðầu hàng" và nghĩa trang phe thua trận ở Arlington.
Nơi đó thường dạy chúng ta bài học làm người văn minh.
Xem lại lịch sử, chiến cuộc Nam Bắc Hoa Kỳ trong 4 năm rất khốc liệt, máu lửa và ghê gớm vô cùng.
Trong một thời gian ngắn các trận đánh dồn dập, các đô thị bốc cháy lửa cao ngút trời. Cũng tản cư, cũng loạn lạc và chiến tranh để lại các cánh đồng toàn xác chết trong các trận giáp lá cà, đâm chém nhau mặt đối mặt.
Nhưng rồi vết thương nào cũng phải được hàn gắn. Nước Mỹ đã có những bước ngoạn mục đầy màu sắc văn minh ngay từ khi chiến tranh chấm dứt để chấp nhận và tôn trọng người bại trận như những anh hùng. Phải chi những tướng lãnh vị quốc vong thân của Việt Nam như Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai của quân đội Việt Nam Cộng Hòa mà hành xử như thế trong cuộc nội chiến Hoa Kỳ thì sẽ được phe thù nghịch tại Hoa Thịnh Ðốn tôn vinh biết chừng nào.
Trong chiến tranh và hậu chiến luôn luôn cần có các nhà lãnh đạo, các tướng lãnh quân tử. Và nhà lãnh đạo quân tử là phải biết xưng tụng các bậc anh hùng trong hàng ngũ kẻ thù, biết nâng người xuống ngựa và biết tôn trọng các tử sĩ của hàng ngũ đối nghịch.
Việt Nam có thể nhận được viện trợ của Mỹ từ Bill Gate ở Seattle, của George Bush ở White House nhưng bài học để trở thành con người văn minh thì phải tìm ở nơi khác.
Ðó là viện bảo tàng đầu hàng và nghĩa trang phe bại trận miền Nam tại Thủ Ðô Hoa Thịnh Ðốn. Nước Mỹ ngày nay còn hùng mạnh bởi vì biết tôn trọng giá trị của phe đối nghịch.
Trước khi chết, tổng thống Lincoln đã nói: "Người ta có thể từ bỏ mọi thứ, nhưng không ai bỏ được lịch sử. Trước sau gì, lịch sử của bậc anh hùng sẽ phải được dựng lại ở chính nơi mà những con người vĩ đại đã ngã xuống."
Tags: history
Trong cuộc tranh giành từng lá phiếu để thông qua Tu Chính 13, Lincoln và phe nhóm ông ta đã phải dùng đến rất nhiều thủ thuật để có đủ 2/3 số phiếu. Họ đã phải hối lộ (không bằng phong bì mà bằng những ban phát phát chức vụ trong chánh quyền mới), phải thỏa hiệp với những tay thao túng lợi ích (power brokers), phải chia để trị, phải đe dọa, phải dỗ dành….Tóm lại, tất cả những sắp xếp sau hậu trường (horse-trading) không khác gì những gian dối mua bán quyền lực và lợi ích ngày nay trên các sân khấu chánh trị từ Âu Mỹ đến Phi Á.
Quyền lợi cá nhân của đa số chính tra gia luôn đặt trên các lợi ích quốc gia hay lý tưởng cộng đồng. Do đó, nếu không có một thể chế phân quyền và minh bạch, sự lạm dụng quyền lực sẽ luôn luôn đi quá đà và tạo nên những thao túng pháp luật vô cùng trắng trợn và táo bạo.
Sự khôn ngoan của các bậc trí thức khi tạo dựng hiến pháp Mỹ và các tuyên ngôn dân quyền đã đem sự ổn định chánh trị và xã hội của Mỹ trong suốt 250 năm qua.
Lý do chính khiến Lincoln phải vội vã đưa ra biều quyết cho Tu Chính 13 khi chiến thắng của miền Bắc đã gần kề là sự giải thích pháp luật theo cái nhìn của một luật gia với mọi văn kiện pháp lý. Theo Lincoln, nếu hiến pháp không đặt chuyện “nô lệ” ra ngoài vòng pháp luật, thì luật vẫn cho nô lệ là một tài sản và thuộc quyền xử lý của tiểu bang. Tóm lại, dù thắng trận, chánh phủ liên bang cũng không có quyền đụng đến “tài sản của dân” và không thể áp buộc các chủ nô lệ phải “giải phóng” hay “ chịu sự tước đoạt” của bất cứ thẩm quyền nào.
Ở xứ Trung Quốc, khi quan điểm của ông Chủ Tịch Mao là “ người cầm súng đặt ra luật lệ” thì không ai thắc mắc về những văn kiện hay điều lệ tiềm ẩn có thể gây tranh cãi tại các tòa án. Chính vì vậy, Lincoln đã tốn bao nhiêu vốn chính trị, đêm không ngủ, thực thi kế sách…để Tu Chính 13 được Hạ Viện thông qua. Tinh thần thượng tôn pháp luật của 1 vị Tổng Thống quyền lực và vừa thắng trận 148 năm trước không biết có làm các lãnh tụ bé hơn ngày nay phải xấu hổ vì sự ngạo mạn chà đạp lên mọi luật lệ và công lý của xã hội?
Ngoài ra, trong những đề nghị ngân sách các năm sau đó, các lãnh tụ kế tiếp của miền Bắc đã luôn dành ưu tiên cho việc tái thiết miền Nam để hàn gắn những đổ vỡ về vật chất cũng như tinh thần.
Tinh thần nhân hậu và cách đối xử văn minh của phe lãnh đạo miền Bắc đã tạo nên một tiền lệ lịch sử cho tinh thần xứ Mỹ: luôn luôn chăm lo cho phe thua cuộc hơn là băm xẻ những miếng mồi ngon bở cho phe nhóm mình. Sau trận thắng huy hoàng ở Thế Chiến 2, Mỹ đã bơm nhiều tỷ đô la thời đó vào chương trình Marshall để tái thiết Âu Châu và MacArthur đã giúp Nhật rất nhiều để xây một nền tảng pháp lý mới cho một nền kinh tế mới.
Thế kỷ 17 khi lập quốc, dù đại đa số những người soạn thảo nên Tuyên Ngôn Độc Lập, Hiến Pháp, và Tuyên ngôn quyền làm người (Bills of Rights) sanh ra tại Mỹ, nhưng vẫn là gốc Anh Quốc và học sách từ Âu châu, và thấm nhuần những triết lý xây dựng quốc gia dựa trên tự do công bằng và chính trực (virtues, justice).
Những triết thuyết từ thời Hy Lạp, La Mã, và những triết thuyết thế kỷ 17 đã được tổng hợp và chọn lọc để viết lên những văn bản xây dựng đất nước tự do dân chủ (liberal democracy) đầu tiên trên thế giới này. Những bài viết phản ảnh suy nghĩ của các nhà lập quốc Mỹ thế kỷ 17 đã được thu thập lại và gọi là Federalist papers, và có thể được tìm thấy trên Internet.
Tuy nhiên, nước Mỹ chỉ trở nên hùng mạnh bằng phát triển kinh tế và khoa học kỹ thuật về sau này. Cách mạng kỹ thuật và tư bản chủ nghĩa bắt đầu phát triển từ Anh quốc, và đã nhanh chóng được những nhà kỹ nghệ người Mỹ gốc Anh du nhập vào nước Mỹ, chủ yếu là miền Bắc trước cuộc nội chiến. Sau nội chiến khoảng từ cuối thế kỷ 19 trở đi, cách mạng kỹ thuật bùng nổ mạnh hơn và nước Mỹ với thể chế chính trị phù hợp đã phát triển mạnh mẽ, tạo ra những tỷ phú sắt thép, tỷ phú xe lửa, tỷ phú dầu hỏa một thời, cũng giống như những tỷ phú Mỹ Internet ngày nay.
Rồi thế chiến thứ I bùng nổ và kết thúc, những trật tự thế giới đã bị đảo lộn. Nước Anh không còn là quốc gia hùng mạnh bậc nhất, đế quốc Áo Hung dù tồn tại mấy trăm năm đã biến mất, nước Nga du nhập triết thuyết cộng sản từ Đức và Anh quốc về, và nước Mỹ trở thành cường quốc số I cho đến ngày nay.
Còn Việt Nam, mặc dù cũng có thời cũng bắt chước hiến pháp nước Mỹ, nhưng có lẽ không đủ tài trí và văn hóa để xây dựng một đất nước tự do dân chủ, nên đã theo nước Nga và Trung Quốc để được giúp đỡ. Từ đó đất nước đi vào con đường cộng sản sai lầm để rồi ngày nay phải đổi mới, tuy nhiên vẫn chưa thoát khỏi đói nghèo để người dân có thể được hãnh diện với mọi người trên thế giới.
chứ mỗi đoạn "còn VN...dân chủ" gợi nhắc chính xác đến chế độ ngụy vnch đấy.
và hiện tại VN vẫn theo đg lối cs, ko phải cncs làm VN nghèo đi mà là ct xâm lược, cấm vận. chưa kể chê cncs thế sao ng gốc V bảo chạy tỵ nạn cs lại ở bang cali, bang của d.c đông nhất thế.
ah còn nữa, bảo cncs làm đn nghèo đi mà sao tq nó mới có mấy chục năm đã thách thức đến nỗi mỹ sốt ruột phải đánh chặn mọi bề, ko thì mất ngôi.
VN nghèo ngoài yếu tố khách quan như trên còn nghèo vì có những kẻ máu V dơ như ông đấy
Mayflower là tên một con tàu đi từ Southampton (Anh quốc), qua châu Mỹ, vùng đất mới. Trên con tàu này có 102 "Thuyền nhân", phần lớn là những người theo đạo "Puritains", một trường phái đạo, theo tư tưởng Calvin, theo đạo Tin lành (Protestantisme), đường hướng Anh-Đức (Anglo - Saxon), xuất hiện ở nước Anh vào thời của nữ hoàng Elisabeth I, khoảng năm 1560. Những người này được gọi là "Presbytériens", mà cách tổ chức, lãnh đạo, hướng dẫn, từ cấp nhỏ, ở mức độ nhà thờ, cho tới cấp lớn, quốc gia, quốc tế, đều được bầu cử qua một hội đồng của những giám mục và những người theo đạo.
Nhánh đạo này đã được truyền vào nước Anh, nhất là vùng Ecosse, bởi John Knox, năm 1560, và đã trở thành quốc giáo năm 1688, nhưng lại bị từ chối bởi Nhà Thờ Anh quốc giáo (Eglise Anglicane).
Những người "Puritains", trên con thuyền Mayflower, đã truyền đạo của mình qua Hoa Kỳ.
Sau một cuộc hành trình đầy gian lao và cực khổ, có người đã chết vì thiếu ăn, thiếu uống, vì bệnh tật, những người còn lại, đại diện bởi 41 trưởng gia đình, đã cùng thề ước với nhau qua một khế ước, được gọi là Khế Ước Mayflower (Mayflower Compact), theo đó họ nhất quyết xây dựng lên một xã hội, một chế độ tốt đẹp, tự do, dân chủ, mà theo đó:
- Mọi người đều có quyền tự do tôn giáo, muốn theo đạo nào thì theo, tùy sở thích của họ.
- Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận.
- Chính quyền là do mọi người bầu ra, với mục đích duy nhất là để phục vụ con người và cộng đồng. Nếu chính quyền đi ngược lại mục đích này, thì người dân có quyền hủy bỏ chính quyền và thiết lập ra một chính quyền khác.
- Một điều rất quan trọng đã ảnh hưởng về sau này tới giới lãnh đạo và dân tộc Hoa kỳ, đó là những người "Puritains" sống một cuộc đời rất đạo đức, khắc khổ. Chữ "Puritanisme" dịch tiếng Việt Nam ta thành ra là Thanh giáo, chủ nghĩa khắc khổ, khó khăn, nghiêm khắc với chính mình, nhưng độ lượng và thương người. Dân Hoa Kỳ một dân tộc thương người khác và là một dân tộc theo đạo và đi nhà thờ rất đông: gần 30% theo đạo Thiên chúa giáo (Catholicisme), gần 60% theo đạo Tin lành (Protestantisme).
Những người, những tổ chức thiện nguyện ở Hoa kỳ giúp đỡ người nghèo, người bệnh tật trên thế giới rất đông. Một thí dụ cụ thể, đó là ông Bill Gates, giầu nhất nhì thế giới và tiền bạc ông bỏ ra giúp đỡ người khác cũng đứng đầu thế giới.
Đây cũng là tinh thần của bản Tuyên Ngôn Độc lập Hoa Kỳ năm 1776, và cũng là ý nghĩa câu nói của Abraham Lincoln: "Chính quyền vì dân, do dân và bởi dân."
Bởi lẽ đó, có người nói rằng, nền tảng đạo đức, triết học, chính trị để tạo ra chính thể hiện nay của Hoa Kỳ là tinh thần Mayflower. Điều này không sai. Và cũng chính vì thế, hàng năm dân tộc Hoa Kỳ làm lễ "Thanks Giving day", ngày lễ Tạ Ơn, để tưởng nhớ đến cuộc hành trình đi tìm dân chủ, tự do, nhớ đến "Mayflower Compact", của 102 người "Thuyền nhân" là như vậy.
Như những người khai hoang tại Jamestown, những người Pilgrims có một mùa đông khổ cực vì họ chưa đủ thời gian trồng trọt. Phần lớn những người khai hoang bị chết đói, kể cả thủ lĩnh là John Carver. William Bradford được bầu để thay thế ông ta vào mùa xuân năm 1621. Trong năm đó, những người này nhận được sự giúp đỡ của Squanto và Samoset, hai người thổ dân biết nói tiếng Anh. Mùa thu năm đó (1621) họ thu hoạch mùa màng thành công và tổ chức lễ Tạ ơn đầu tiên.
[img]https://i.chzbgr.com/maxW500/7439967488/hD10213D9/[/img]
Và ngày lễ mà người Mỹ tưởng niệm sau Nội chiến có tên là Memorial Day, để tưởng niệm tất cả những người lính đã hy sinh vì Tổ quốc, không phân biệt khi đó họ chiến đấu dưới cờ của tướng Lee hay của Tổng thống Lincoln và đại tướng Grant.
“..."Một nhà tự chia rẽ thì nhà ấy không thể đứng vững được". Tôi tin rằng chính quyền này không thể trường tồn trong tình trạng một nửa nước nô lệ, một nửa nước tự do. Tôi không mong chờ Chính phủ liên bang bị giải thể - tôi không mong đợi ngôi nhà bị sụp đổ - nhưng tôi thực sự trông mong đất nước này sẽ không còn bị chia rẽ.
Đất nước chúng ta sẽ trở thành một thực thể như thế này hoặc là hoàn toàn khác. Hoặc là những người chống chế độ nô lệ sẽ kìm hãm được tệ nạn này, và khiến công chúng tin rằng cuối cùng nó sẽ không còn tồn tại; hoặc là những người ủng hộ chế độ nô lệ sẽ phát triển và biến nó thành hợp pháp tại mọi tiểu bang, mới cũng như cũ – miền Bắc cũng như miền Nam…."
“Mục tiêu to lớn của tôi trong cuộc chiến này là cứu Liên bang, chứ không phải là cứu hay hủy diệt chế độ nô lệ. Nếu có thể cứu Liên bang mà không cần phải giải phóng nô lệ thì tôi sẽ làm như thế, còn nếu có thể cứu Liên bang mà phải giải phóng tất cả nô lệ tôi sẽ làm như thế; và nếu có thể cứu Liên bang mà chỉ cần giải phóng một số nô lệ và để mặc những nô lệ còn lại, tôi cũng sẽ làm. Những gì tôi làm liên quan đến chế độ nô lệ và chủng tộc da màu là do tôi tin rằng nó giúp chúng ta cứu Liên bang...
Ông định nghĩa rằng chiến tranh là sự hi sinh đấu tranh cho nguyên tắc tự do và bình đẳng cho mọi người. Giải phóng nô lệ là một phần của nỗ lực ấy. Ông tuyên bố rằng cái chết của các chiến sĩ dũng cảm là không vô ích, rằng chế độ nô lệ sẽ thất bại và cáo chung, tương lai của nền dân chủ sẽ được bảo đảm, và "chính quyền của dân, do dân, vì dân sẽ không lụi tàn khỏi mặt đất." Lincoln đúc kết rằng cuộc nội chiến có một mục tiêu cao quý – sản sinh một nền tự do mới cho dân tộc.
“Mơ ước khi hi vọng – khẩn thiết lúc nguyện cầu – chúng ta mong cuộc chiến đau thương này sớm chấm dứt. Song, theo ý chỉ của Thiên Chúa, nó vẫn tiếp diễn, cho đến khi tất cả của cải từng được dồn chứa bởi sự lao dịch khốn cùng của người nô lệ trong suốt 250 năm sẽ bị tiêu tan, cho đến khi mỗi một giọt máu ứa ra từ những lằn đòn sẽ bị đáp trả bằng những nhát chém, như đã được cảnh báo từ 3 000 năm trước, và cần được nhắc lại hôm nay, "sự đoán xét của Chúa là chân lý và hoàn toàn công chính".
Không ác tâm với bất cứ ai nhưng nhân ái với mọi người, và kiên định trong lẽ phải. Khi Chúa cho chúng ta nhận ra lẽ phải, hãy tranh đấu để hoàn thành sứ mạng được giao: hàn gắn vết thương của dân tộc, chăm sóc các chiến sĩ, những người vợ góa, những trẻ mồ côi – hết sức mình tạo lập một nền hòa bình vững bền và công chính, cho chúng ta, và cho mọi dân tộc.
Sau một lúc im lặng, Lincoln hỏi xem họ còn nhớ sự kiện Blondin đi dây ngang qua thác Niagara không. Dĩ nhiên là họ nhớ.
Một người trong số họ thuật lại lời của Tổng thống, "Giả sử toàn bộ giá trị vật chất trên đất nước vĩ đại này của chúng ta, từ Đại Tây Dương đến Thái Bình Dương – sự giàu có, thịnh vượng, những thành quả của nó trong hiện tại và cả niềm hi vọng cho tương lai – được tập trung lại và giao cho Blondin đem chúng băng qua thác trong chuyến đi kinh khủng này;" và giả sử "bạn đang đứng trên bờ thác khi Blondin đi trên dây, khi anh đang cẩn thận dò dẫm từng bước chân và đang cố giữ thăng bằng với thanh ngang trên tay bằng kỹ năng tinh tế của mình để băng qua thác nước khổng lồ đang gầm rú bên dưới. Bạn sẽ gào thét, ‘Blondin, qua phải một bước!’ ‘Blondin, qua trái một bước!’ hay là bạn lặng lẽ đứng yên, nín thở và cầu nguyện xin Đấng Toàn Năng hướng dẫn và giúp anh ấy vượt qua cơn thử thách?"
~ Abraham Lincoln
nước mỹ sẽ không bị đánh bại từ bên ngoài, mà chỉ mất tự do khi tự tàn phá
và các ông như nam, hưng có chết cũng ko chết vì quyền lợi VN. họ đã chiến đấu cho chế độ ngụy tay sai ngoại bang và thay vì sửa sai hay ở lại chấp nhận hình phạt nếu có cho tội lỗi của mình, họ chọn cái chết hèn nhát để được suy tôn là anh hùng.
bao nhiêu cựu tù cộng sản đã bị hành hạ tra tấn nhưng họ ko chọn cái chết giải thoát, họ chọn kiên trí bền gan ở lại để chiến đấu cho độc lập và sau này là xây dựng đn từ đống đổ nát
chủ blog có thể học văn minh từ bất cứ đâu với sự công tâm và ko lòng thù hận vô duyên vô lý, ko có những thứ đó thì mang tiếng ở nước mỹ pt bậc nhất, chủ blog vẫn mãi là kẻ u tối và bạc bẽo