Cả cuộc đời con người, rốt cuộc là vì tìm kiếm điều gì?
shared via Nhịp cầu Thế giới.
-----
...Nếu phải đi tìm, có lẽ đừng tìm người yêu mình hay người mình yêu mà tìm người ở cạnh mình giây phút cuối.
Đại đế Alexandre thì không.
Hoàng tử Alexandre (356-323TCN) của xứ Macedonia, học trò yêu của Aristote, 18 tuổi thống lãnh kỵ binh quốc gia, 20 tuổi lên làm vua, 26 tuổi lấy trọn đế quốc Achaemenid của người Ba Tư/Persian. Gót chân chinh phục miệt mài từ bờ Địa Trung Hải tới Lưỡng Hà/Mesopotamie tới tận chân núi Hy Mã Lạp Sơn.
Alexander từ giã Hoàng hậu Roxana ở Bactria trở về Macedonia gặp Mẹ, nhưng tới Babylone thì ngã quỵ. Sốt cao trong 10 ngày, Alexander mới có thì giờ nhận ra rằng quân đội tuyệt vời, thanh kiếm sắc bén, đế quốc bạt ngàn... chẳng là gì trước lưỡi hái Thần Chết.
Ông kêu các tướng lĩnh trăn trối:
“Ta đang rời khỏi thế giới này, ta có ba điều ước:
Uớc đầu tiên: bác sĩ của ta khiêng quan tài.
Thứ hai, trải vàng bạc nữ trang ta thu thập được trên đường dẫn đến mộ phần.
Cuối cùng, để hai bàn tay ta lơ lửng khỏi quan tài”.
Photo courtesy The National Guard.
Các dũng tuớng phủ phục không dám hỏi chỉ quỳ hôn tay Alexandre hứa sẽ làm theo.
Đại đế cố lấy chút hơi tàn nói:
“Ta muốn thế giới học bài học mà ta chỉ mới học cách đây 10 phút:
- Không bác sĩ nào chiến thắng được bệnh tật chi bằng hãy sống tử tế đừng phụ cuộc đời.
- Vàng bạc châu báu chỉ rải theo chứ ta không mang theo đươc, vậy loài nguời mải mê chạy theo một thứ không thể mang theo để làm gì?
- Hai tay ta ra ngoài cho nhân gian thấy ta đến với hai tay không và cũng ra đi với tay không”.
Người vĩ đại nhợt nhạt chờ đợi vô vọng hơi thở cuối cùng khi chưa tròn 33 tuổi. Chỉ có Thần Chết nhe răng nhẩy múa còn thì vắng bóng cả hai ngưòi phụ nữ yêu mến nhất đời.
Đại đế chinh phục núi cao biển rộng nằm xuội lơ thảm hại duới chân thần chết. Ông thì thào lời cuối: “Chôn ta, đừng xây đền đài lăng mộ”.
Bài trước: Cơ hội thứ 2 và câu chuyện của Jean Valjean
Tags: thinking
“Các bạn ơi: Cuộc sống chỉ tuyệt vời nếu bạn nhận ra điều đó. Hãy mở mắt đón nhận cuộc sống với muôn ngàn màu sắc lộng lẫy mà Thượng Đế thương yêu ban cho chúng ta. Hãy sống trọn vẹn, sống cho ra sống, bạn nhé”.
Vùng đất nằm giữa sông Tigris và Euphrates có tên gọi trong tiếng Hy Lạp là Mesopotamia, nghĩa là Lưỡng Hà (nằm giữa hai con sông). Trên vùng đất ấy cách đây khoảng 5000 năm có người Babylon và Assyria sinh sống. Bằng mắt thường, họ quan sát và nhận ra quy luật chuyển động của bảy “hành tinh”. Người Babilon và Assyria dùng tên của bảy hành tinh để đặt tên cho cho bảy ngày.
Đến nay những cái tên ấy vẫn còn dấu vết trong những ngôn ngữ như Anh, Pháp và Ý. Chủ nhật là Mặt Trời (Sun, Sunday), Thứ hai là Mặt Trăng (Mon, Monday), Thứ ba là Sao Hỏa (Mars, Mardi), Thứ 4 là Sao Thủy (Mercury, Mercredi), thứ năm là là Sao Mộc (Jupiter, Jeudi), thứ sáu là Sao Kim (Venus, Vendredi), thứ bảy là Sao Thổ (Saturn, Saturday).
…
Đến năm 202 trước Công Nguyên, những người La Mã thành Rome bắt đầu nổi lên như một thế lực quân sự mới. Họ đánh bại đội quân của Hannibal hùng mạnh, chiếm Carthage, chiếm Tây Ban Nha và chiếm Hy Lạp của Alexander Đại Đế. Trên khắp thuộc địa của mình, người La Mã thiết lập các chế độ cai trị với người đứng đầu là các quan tổng trấn người La Mã. Quan tổng trấn sử dụng luật pháp, hệ thống thu thuế và quân đội La Mã để kiểm soát người dân. Julius Ceasar, một người đàn ông nhỏ bé nhưng có trí tuệ và nghị lực siêu phàm, đã phát minh ra một cách quản lý hiệu quả hơn đế chế rộng lớn của mình. Ông đồng bộ hóa thời gian trên toàn đế chế bằng lịch La Mã mang tên ông (lịch Julian).
…
Năm 1539, một sinh viên thần học vốn là quý tộc và cựu quân nhân là Ignatius xứ Loyola đã cùng 6 người bạn là sinh viên Đại học Paris thành lập Dòng Tên. Dòng Tên thề trung thành với Giáo Hoàng, cùng Giáo Hội chống lại phong trào cải cách. Họ sử dụng công cụ truyền thống là giáo dục và truyền bá kiến thức. Một đoàn giáo sĩ của Dòng Tên ấy, do thánh Francis Xavier dẫn đầu, đã theo chân nhà thám hiểm Magellan đi về Châu Á. Nửa cuối thế kỷ 16, những giáo sĩ dòng Tên ấy đã đến Kẻ Chàm (Quảng Nam) và du nhập vào nước ta chữ cái latin (nay là chữ quốc ngữ), lịch Julian (nay là dương lịch) và hình học Euclid (rất đáng tiếc, bị chúa Trịnh từ chối).
" Về phía tôi, tôi xin thú thật rằng lần đầu khi tôi đến xứ Đàng Trong và nghe người ta nói chuyện, đặc biệt là những phụ nữ, tôi thấy như đang nghe chim hót vậy... Tất cả các từ đều độc âm, ý nghĩa của chúng thay đổi tuỳ theo âm điệu khi người ta nói. Chỉ một âm tiết duy nhất, như “dai” chẳng hạn, lại có đến 23 nghĩa khác nhau tùy theo cách mà nó được phát âm, có nghĩa là nói cũng như hát vậy”
Ngày nay chúng ta biết tiếng Việt có 6 thanh, chữ "dai" có 6 nghĩa khác nhau. Nhưng theo Alexandre de Rhodes thì thời đó chữ này có 23 nghĩa, tức là có thể tiếng Việt (ở Nam Bộ thời đó) có 23 thanh chứ không phải 6. Vậy "tội" của các nhà truyền đạo phương Tây là đã làm mất đi sự "phong phú" của tiếng Việt, có lẽ vì họ chỉ có thể phân biệt được 6 thanh khi phiên âm sang chữ Latin.
Nhưng biết đâu đấy lại là "công" giúp đơn giản tiếng Việt để học sinh bây giờ chỉ phải học huyền, sắc, nặng, hỏi, ngã chứ không phải hơn 20 thứ dấu khác
Niềm tin của một người hạnh phúc:
Tôi biết ơn mỗi ngày, không phải vì giàu có, nhưng vì minh triết mà tôi nhận ra và sử dụng phù hợp sự giàu có vô biên mà tôi có.
Tôi tìm thấy hạnh phúc bằng cách giúp người khác tìm thấy hạnh phúc.
Tôi không lo sợ bất kỳ điều gì.
Tôi không ghét hay ganh tị với ai nhưng yêu tất cả.
Tôi làm việc tôi thích.
Tôi không yêu cầu ai điều gì ngoại trừ đặc quyền được chia sẻ cho những ai muốn nhận.
Tôi không có kẻ thù vì tôi không làm hại bất kỳ ai.
Tôi mang đến lợi ích cho mọi người liên quan.
Tôi có nhiều vật chất hơn tôi cần bởi vì tôi không tham lam và chỉ sở hữu những thứ tôi có thể dùng khi còn sống.
Tôi tạo ra tài sản giá trị nhất mà không ai có thể đánh thuế bằng cách quan sát các quy luật của tự nhiên và điều chỉnh thói quen cho phù hợp.
[img]https://4.bp.blogspot.com/-YpySczUZj58/XcwOyqAL48I/AAAAAAAB3JE/X5lG6rPezjAMqSaEHTYc4prye2rKeftGwCLcBGAsYHQ/s1600/nguoi%2Bhanh%2Bphuc.jpg[/img]