Ebola, HIV, Cúm Tây Ban Nha, SARS — Những án tử của thế kỷ 20
bài bình sách của Carl Zimmer
ngày 05 tháng 6 năm 2019
nguồn: NYTimes,
Thu Thảo dịch,
THẾ KỶ ĐẠI DỊCH
Một trăm năm kinh hoàng, cuồng loạn và ngạo mạn
tác giả Mark Honigsbaum
Một vài đoạn trong cuốn “The Pandemic Century” (“Thế kỷ Đại dịch”) của Mark Honigsbaum sống động đến mức tôi có thể mường tượng được các cảnh phim. Khi đọc đến giữa cuốn sách, tôi hình dung được một bác sĩ đang bước lên
những bậc thềm phía trước của một ngôi nhà liền kề ở thành phố Annapolis, bang Maryland, mùa đông năm 1930. Ông gõ cửa nhưng không ai trả lời, ông bèn đẩy cửa bước vào. Một thợ sửa xe đang nằm xoãi trên ghế, thều thào trong cơn sốt mê man. Vợ anh ta vẩn vơ đi ra từ phòng ngủ, la hét điên loạn. Từ trong bếp, mẹ cô ta ho nấc lên từng tràng.
Lồng chim treo trên trần, một con vẹt chết, nằm phơi bụng.
Đợt bùng phát dịch sốt vẹt năm 1930 đã dần biến mất khỏi ký ức chúng ta. Nhưng ở đỉnh dịch, đó là tiêu điểm các bài báo gây hoảng loạn, ví dụ như “Sốt vẹt khiến bảy người tử vong” trên tờ Los Angeles Times. Từ đông sang tây, bệnh đã lây từ vẹt sang người. Trong vòng sáu tháng, trên thế giới có tới 800 ca sốt vẹt và 33 người Mỹ đã tử vong. Trong số những người chết có cả các nhà khoa học nỗ lực tìm nguyên nhân của đợt bùng phát.
Một sai lầm trong quá khứ đã
khiến họ thiệt mạng. Năm 1892, một nhà vi trùng học người Pháp tuyên bố đã tìm thấy vi khuẩn gây bệnh sốt vẹt. Thật ra, ông đã tìm ra một chủng salmonella không liên quan đến căn bệnh này. Ba mươi tám năm sau, giữa đợt bùng phát năm 1930, các nhà khoa học cuối cùng đã tìm ra thủ phạm thực sự: một loài vi khuẩn hiện được gọi là Chlamydia psittaci.
Sự tìm ra căn nguyên này đã trở thành vũ khí hữu hiệu. Các bác sĩ bắt đầu chẩn đoán bệnh chính xác hơn, và chim bắt đầu được sàng lọc. Sự bùng phát giảm dần và sốt vẹt được kiểm soát kể từ đó. Tại Mỹ, mỗi năm không quá 10 người mắc bệnh, nhưng họ có thể được chữa khỏi bằng kháng sinh.
Tác giả Honigsbaum, nhà báo và cũng là nhà sử học, viết nên cuốn sách “Thế kỷ đại dịch” từ chín câu chuyện như vậy. Dù còn quen thuộc hay đã quên, sốt vẹt hay Ebola, ông đều cho chúng ta thấy sự tương đồng đáng kinh ngạc giữa chúng. Và những điểm tương đồng đó khiến chúng ta phải lo lắng về đợt bùng phát tiếp theo. Dựa trên kinh nghiệm quá khứ, có lẽ điều tồi tệ sẽ xảy ra.
Sự nhầm lẫn về mầm bệnh sốt vẹt là điều phổ biến. Hết lần này đến lần khác, các đại dịch đã bùng phát vì chúng ta không nhận ra mình đang đối phó với điều gì. Khi những người lính bắt đầu chết vì cúm vào cuối Thế chiến I, các bác sĩ cho rằng căn bệnh này là do loài vi khuẩn Bacillus influenzae gây ra. Trên thực tế, virus gây ra trận cúm này và B. influenzae chỉ là “kẻ cơ hội” tranh thủ nhiễm vào phổi bị suy yếu. Đại dịch năm 1918 sau đó khiến 50 triệu người chết trên toàn thế giới.
Năm 2014-2015, dịch Ebola Tây Phi bùng phát khiến mọi người kinh ngạc, vì trước đó Ebola chưa từng xảy ra ở đây. Tuy nhiên, các nhà khoa học đã tìm thấy kháng thể ở người Tây Phi, qua đó cho rằng loại virus này đã lan sang khu vực này từ nhiều năm trước. Báo cáo nghiên cứu của họ bị một tạp chí từ chối đăng, khi một đồng nghiệp xét duyệt nói thẳng thừng, “Tôi không tin có virus Ebola ở Tây Phi.”
Sợi dây liên kết phổ biến khác đối với các đợt dịch bệnh mà tác giả Honigsbaum lấy làm ví dụ là cách chúng phát sinh. Chúng ta thường tự tạo ra dịch bệnh. Năm 1976, hàng trăm thành viên Quân đoàn Mỹ tham dự một hội nghị ở Philadelphia bị bệnh và 34 người chết. Hóa ra một loại vi khuẩn khác đang ẩn mình trong tháp nước của khách sạn. Vi khuẩn này, hiện được gọi là Legionella, có thể là mới đối với chúng ta nhưng nó đã sống hàng triệu năm trong đất và nước, nơi nó tấn công amip. Khi xây dựng các hệ thống làm mát, chúng ta đã tạo ra một môi trường mới, nơi nó có thể phát triển mạnh và lẫn vào trong những giọt nước nhỏ li ti có thể được hít vào.
Do không hiểu về các đại dịch nên mỗi khi chúng nổ ra, chúng ta thường hoảng loạn hết sức nguy hiểm. Khi bệnh HIV xuất hiện đầu những năm 1980, những người nhiễm bệnh bị coi là những kẻ hạ đẳng, bị “rủa xả” vì căn bệnh họ mắc phải và bị xa lánh như thể bắt tay cũng bị nhiễm HIV. Trong đợt bùng phát dịch Ebola ở Tây Phi, sự xuất hiện đột ngột của các đội y tế bí ẩn làm dấy lên tin đồn rằng thật ra họ đến đây để lấy nội tạng và đánh cắp máu. Honigsbaum buồn bã dẫn lời nhà vi trùng học người Hà Lan Peter Piot: “Có một dịch bệnh Ebola ở Tây Phi, sau đó có dịch bệnh thứ hai, đó là dịch bệnh “lên đồng tập thể”.”
Mỗi chương trong “Thế kỷ Đại dịch” được nghiên cứu rất kỹ lưỡng. Để kể câu chuyện về virus Zika, Honigsbaum đã đến thành phố Recife ở Brazil, nơi bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh, khiến trẻ em bị dị tật bẩm sinh. Câu chuyện của ông về đại dịch cúm năm 1918 rất nóng sốt, khi ông tìm hiểu rất sâu các tài liệu lưu trữ và các nghiên cứu gần đây về nguồn gốc của nó. Có nhiều điều học được ở cuốn sách này. Nhưng để tóm gọn chín đại dịch vào một cuốn sách, Honigsbaum cũng chọn không nhắc tới nhiều điều. Một số điều không được nhắc tới đó gây hiểu lầm.
Chẳng hạn, câu chuyện về HIV của ông cho ta cảm tưởng như nhìn vào gương chiếu hậu đối với mối đe dọa đang dần lùi vào dĩ vãng. “Ngày nay, trong kỷ nguyên của thuốc kháng retrovirus, khi bị chẩn đoán nhiễm HIV không có nghĩa là lĩnh án tử, chúng ta dễ dàng quên đi sự hoảng loạn, cuồng loạn và kỳ thị của những ngày đầu đại dịch,” Honigsbaum viết. Đúng là số người chết vì HIV đã giảm mạnh ở Mỹ (năm 2016 là 15.807 người). Nhưng châu Phi, chứ không phải Mỹ, từ lâu đã trở thành trung tâm đại dịch HIV trên toàn thế giới và vẫn còn quá nhiều người không thể có thuốc retrovirus. Bảy mươi phần trăm các trường hợp tử vong liên quan đến HIV diễn ra ở châu Phi; chỉ riêng năm 2017, gần 670.000 người châu Phi đã chết. Vẫn chưa đến lúc nói về HIV như một đại dịch trong quá khứ.
Để bao quát cả chín câu chuyện, Honigsbaum lướt nhanh qua những nội dung khó hiểu. Ông nhắc đến “một xét nghiệm miễn dịch huỳnh quang gián tiếp để chứng minh sự chuyển hóa huyết thanh” nhưng không giải thích cho độc giả. Đôi khi ông viết những đoạn dài lê thê tới một hoặc hai trang sách, kể lể nhiều chi tiết rối rắm của chính trị y tế công.
Bỏ qua những chi tiết này, tôi vẫn vấn vương về thông điệp chính của cuốn sách, thể hiện ngay ở tên sách. Chúng ta có nên gọi một trăm năm qua là Thế kỷ đại dịch?
Đợt bùng phát sốt vẹt tương đối dữ dội, nhưng chỉ với 33 trường hợp tử vong ở Mỹ và số người chết tương đối thấp ở châu Âu, nó có lẽ không nên được coi là một đại dịch. Đợt bùng phát HIV và dịch cúm năm 1918 rõ ràng là thảm họa — nhưng các thế kỷ trước đó chứng kiến những đại dịch khủng khiếp hơn thế. Columbus và những người châu Âu đi theo ông không cần máy bay để đưa mầm bệnh chết người đến châu Mỹ. Trong một nghiên cứu gần đây, các nhà nghiên cứu Đại học Oxford ước tính những căn bệnh này đã giết chết 56 triệu người — 90% dân số châu Mỹ — cho tới năm 1600.
Điều khiến thế kỷ qua khác thường không phải là bản thân đại dịch, mà là những kỳ vọng của chúng ta về việc đánh bại chúng. Lý thuyết mầm bệnh và những tiến bộ khoa học khác trong thế kỷ 19 cho chúng ta cảm tưởng như đã làm chủ thế giới vi sinh vật. Nhưng các mầm bệnh vẫn tiếp tục phá vỡ hàng rào chủng loài của chúng ta bất chấp những tiến bộ đó — tạm kể ba ví dụ: HIV từ tinh tinh, cúm từ chim, Zika từ khỉ. Trên thực tế, cách thế giới cải thiện mức sống đôi khi đã khiến chúng ta tiếp xúc với những căn bệnh mà chúng ta lẽ ra không bao giờ phải đối mặt.
Sau khi nghiên cứu lịch sử, tác giả Honigsbaum trở nên bi quan về tương lai. “Chắc chắn sẽ lại có những đại dịch mới và những bệnh dịch mới,” ông cam đoan. Nhưng ông bỏ qua những nỗ lực giúp chống lại đại dịch trong tương lai hoặc thậm chí ngăn chặn chúng ngay từ trước khi chúng xuất hiện — chẳng hạn như các dự án nhằm giữ mọi người ở khoảng cách an toàn với động vật hoang dã tiềm ẩn nguy hiểm, các chương trình và mạng lưới giám sát virus toàn cầu giúp mang lại thông tin tích cực thay vì lan truyền sự sợ hãi cho cộng đồng. Chắc chắn hiểu thêm về lịch sử giúp chúng ta có cơ hội quý báu không lặp lại sai lầm.
Ai cũng nói câu đừng để lịch sử lặp lại, nhưng dường như loài người chả bao giờ học được gì từ quá khứ cả.
Đại dịch hạch đầu tiên mà loài người gánh chịu xảy ra vào triều đại vua Justinian I (483 - 565 sau Công nguyên) cai trị Đế quốc Byzantine (còn gọi là Đông La Mã) bởi vi khuẩn dịch hạch (Yersinia pestis). Do điều kiện vệ sinh kém, dân trí thấp nên trận dịch này đã giết chết khoảng 50 triệu người khắp vùng Trung Á, Trung Đông, Bắc Phi, chiếm một nửa dân số thế giới khi ấy.
Khi đại dịch diễn ra, xác con người và động vật rải rác khắp nơi, các hố chôn tập thể quá tải tới mức người ta phải đặt xác lên thuyền rồi cho trôi ra đại dương. Người nhiễm bệnh khi ấy có thể được nhân viên y tế chữa trị hoặc thực hiện các biện pháp khắc phục tại nhà bằng cách tắm nước lạnh, dùng bột phấn để bôi và nhiều loại thuốc chứa alkaloid có dược tính mạnh.
Tuy nhiên, đại dịch kết thúc cũng là khi đế chế Byzantine suy yếu, các nền văn minh khác được đà đã tái chiếm vùng đất Byzantine và đế quốc này không bao giờ có thể vực dậy được nữa.
Đại dịch "cái chết đen" vẫn bắt nguồn từ khuẩn dịch hạch Yersinia pestis ký sinh trên loài chuột. Bệnh dịch lan đến châu Âu vào tháng 10-1347, khi 12 tàu từ Biển Đen cập cảng Messina của Sicilia (Ý). Người dân trên bến cảng đã gặp phải một bất ngờ kinh hoàng: hầu hết các thủy thủ trên 12 con tàu đều đã chết, những người còn sống thì bị bệnh nặng, toàn thân bao phủ trong những nhọt đen rỉ máu và mủ. Chính quyền Sicilia vội vã đưa số tàu này ra khỏi cảng, nhưng đã quá muộn.
Trong vòng từ năm 1347 đến 1351, dịch bệnh lan rộng khắp châu Âu, giết chết khoảng 25 triệu người. Giao thương, chiến tranh, nạn đói cùng những đoàn người di dân khiến dịch bệnh lây lan nhanh chóng ra mọi tầng lớp dân cư thời ấy.
Nhà sinh vật học người Pháp Alexandre Yersin sau này đã phát hiện ra mầm bệnh vào cuối thế kỷ 19. Các tiến bộ khoa học sau này cũng tìm ra cách lây lan và chữa trị dịch bệnh nhưng đối với người dân châu Âu khi đó thì đại dịch tựa như một "sự trừng phạt của Chúa".
Đại dịch chỉ giảm thiểu vào năm 1351, khi người dân thực hiện vệ sinh cá nhân, môi trường tốt hơn và thực hành y tế công cộng.
Cái chết đen là khởi đầu cho "sự suy tàn của chế độ nông nô" vì rất nhiều người đã chết, những người sống sót có cơ hội nâng cao mức sống. Công nhân có nhiều cơ hội làm việc hơn, sự di chuyển xã hội cũng tăng lên, chiến tranh cũng tạm thời ngưng lại.
Thực dân châu Âu xâm chiếm châu Mỹ vào thế kỷ 17 và mang theo cả bệnh đậu mùa (do virus variola gây ra) tới lục địa này. Bệnh đậu mùa đã cướp đi sinh mạng của khoảng 20 triệu người, gần 90% dân số ở châu Mỹ khi đó.
Bệnh dịch cũng khiến nhiều vị vua trị vì châu Âu tử vong, bao gồm Hoàng đế Habsburg Joseph I, Nữ hoàng Mary II của Anh, Czar Peter II của Nga và Vua Louis XV của Pháp.
Đại dịch đã giúp người châu Âu dễ dàng xâm chiếm và phát triển các khu vực mới bỏ trống, thay đổi mãi mãi lịch sử của châu Mỹ và nền kinh tế toàn cầu. Các cuộc khai thác khoáng sản quy mô lớn khi đó là một bước ngoặt quan trọng trong sự hình thành của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Năm 1796, bác sĩ người Anh Edward Jenner khám phá ra rằng con người có thể miễn nhiễm với đậu mùa sau khi chúng ta tiêm vào cơ thể một loại virus tương tự variola nhưng ít gây hại hơn. Các thí nghiệm của Jenner như lấy mủ từ bệnh nhân mắc bệnh nhẹ và đưa chúng vào da hoặc mũi của những người khỏe mạnh.
Kết quả cho thấy những người chưa bị bệnh sẽ chỉ bị nhiễm trùng nhẹ và phát triển khả năng miễn dịch với các đợt bùng phát mới. Tuy vẫn có người chết nhưng con số dần giảm mạnh.
Đây cũng chính là sự kiện dẫn đến sự ra đời của những liều vaccine (vắcxin) đầu tiên trên thế giới. Sau đó, nhiều quốc gia thực hành tiêm chủng để phòng đậu mùa. Năm 1980, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tuyên bố đậu mùa đã bị xóa sổ trên toàn thế giới. Cho đến nay đậu mùa vẫn là căn bệnh duy nhất mà con người xóa sổ được trên phạm vi toàn cầu.
Đại dịch tả đầu tiên bắt đầu ở Jessore, Ấn Độ (1817-1823) và giết chết hàng triệu người dân Ấn Độ khi ấy. Sau đó, dịch tả bùng phát thêm nhiều đợt mới lan nhanh khắp các châu lục trong thời gian ngắn.
Mãi tới năm 1854, khi đại dịch đã lan rộng ở châu Âu, bác sĩ người Anh khi đó là John Snow tìm ra nguồn lây và đã ngăn chặn sự bùng phát vào bằng cách ngăn người dân sử dụng nguồn nước máy ô nhiễm. Dịch tả tại Anh nhanh chóng kết thúc trong vài ngày sau đó.
Tổ chức Y tế Thế giới gọi dịch tả là "đại dịch bị lãng quên" vì nó kết thúc rồi lại bùng phát. Kể từ trận dịch đầu tiên năm 1897, đến nay thế giới đã trải qua 7 trận dịch mới. Đợt bùng phát thứ 7, bắt đầu vào năm 1961 và kéo dài cho đến ngày nay. Dịch tả lây nhiễm 1,3-4 triệu người mỗi năm, tỉ lệ tử vong hàng năm từ 21.000-143.000.
Vì dịch tả gây ra do ăn phải thức ăn hoặc uống nước bị nhiễm một loại vi khuẩn nhất định nên nó có ảnh hưởng rất lớn đến các quốc gia có nên kinh tế yếu kém, trình độ dân trí thấp, điều kiện vệ sinh và hệ thống y tế kém. Trong khi đó, các nước giàu có hơn gần như không lo lắng về bệnh dịch.