Sự vươn lên của Ngân hàng Trung ương Trung Hoa
Bắt đầu với những cải cách của Đặng Tiểu Bình vào năm 1978, Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa dần dần nổi lên như một cường quốc thế giới. Nguồn: Thư viện Quốc hội (Mỹ), Phòng In ấn và Nhiếp ảnh.
by Stephen Bell & Hui Feng / Sơn Phạm dịch
Tính đến tháng 11 năm 2012, Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa (PBOC) có tổng tài sản hơn 4,8 nghìn tỉ USD, nhiều hơn cả Ngân hàng Trung ương châu Âu và Cục Dự trữ Liên bang Mỹ. PBOC giờ đây cung cấp hơn một nửa tổng thanh khoản của thế giới và quản lý lượng dự trữ ngoại hối trị giá gần 3,3 nghìn tỷ USD.
PBOC ngày càng trở thành người cho vay cuối cùng trên trường quốc tế, đặc biệt là khi các chính trị gia châu Âu đang cố gắng thuyết phục Trung Hoa mua trái phiếu của họ. Không có gì ngạc nhiên khi Zhou Xiaochuan (Chu Tiểu Xuyên), thống đốc của PBOC, từ lâu đã được gọi là "Thống đốc ngân hàng trung ương của thế giới", người mà những lời nói có thể làm rung động thị trường toàn cầu.
Thật khó mà tin rằng chỉ trong ba thập kỷ trước đây, PBOC chỉ là một tổ chức nhỏ trong mê cung (labyrinth) bộ máy quan liêu của Trung Hoa. Sự vươn lên của ngân hàng này là cả một câu chuyện về quá trình chuyển đổi kinh tế hỗn loạn, sự lãnh đạo khéo léo và, trên tất cả là, chiến lược chính trị không ngoan. Và, những thách thức quan trọng nhất của nó có thể vẫn còn ở phía trước.
Sau cuộc cách mạng cộng sản, PBOC đã được chính thức thành lập vào năm 1949 như là một ngân hàng quốc gia, được ủy quyền là trung tâm tiền mặt, thanh toán bù trừ và tín dụng để phục vụ cho nền kinh tế Trung Quốc.
Trong những năm 1950, PBOC là ngân hàng lớn duy nhất ở Trung Quốc, một hệ thống chung (universal?) thực hiện chức năng ngân hàng trung ương và bán lẻ thô sơ. Tuy nhiên, nó đã bị gạt ra bên lề bởi sự áp chế tài chính và hệ thống phân cấp quan liêu trong nền kinh tế chỉ huy của Trung Hoa. Từ năm 1958 đến 1962, các chi nhánh của PBOC đã được sáp nhập với các Kho bạc địa phương, và từ năm 1968 để 1977, trụ sở chính của nó chỉ có 80 nhân viên hoạt động như một bộ phận nhỏ trong Bộ Tài chính. Ngân hàng này chẳng có hoạt động nào khác ngoài các hoạt động kế toán, thu ngân, và in tiền đơn thuần (mint-master).
Các cải cách của Đặng Tiểu Bình
Sau khi Đặng Tiểu Bình khởi xướng các cải cách kinh tế bắt đầu từ năm 1978, PBOC dần dần trở thành cơ quan quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng nhất của Trung Hoa. Thị trường mới nổi này và sự mở rộng nhanh chóng các giao dịch quốc tế đòi hỏi sự trung gian tài chính phức tạp mà hệ thống chung của PBOC đã không thể đáp ứng.
PBOC tách độc lập khỏi Bộ Tài chính từ năm 1979, và do hàng loạt các ngân hàng nhà nước đã được hồi sinh để tham gia vào kinh doanh thương mại, vai trò của PBOC trong hệ thống mới đã trở thành vấn đề gây tranh luận sôi nổi. Sau nhiều cuộc tranh luận nội bộ kéo dài, vị thế của nó như là ngân hàng trung ương Trung Hoa đã được chính thức xác nhận vào năm 1983 và các hoạt động ngân hàng thương mại của nó đã được trao cho các ngân hàng nhà nước khác.
Các cuộc khủng hoảng lạm phát trong những năm 1980 và đầu những năm 1990 đã khiến giới tinh hoa có đầu óc cải cách thúc đẩy vai trò của PBOC nhằm duy trì sự ổn định giá cả thông qua Luật Ngân hàng Trung ương năm 1995. Luật này quy định: "Mục tiêu của các chính sách tiền tệ là nhằm duy trì sự ổn định giá trị tiền tệ và từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế."
Chính quyền trung ương cũng cơ cấu lại các chi nhánh địa phương của PBOC, cho phép tăng tính tự chủ từ chính quyền tỉnh, vốn là nguồn cơn gây lạm phát do đầu tư tràn lan. Sau khi việc lập kế hoạch tài chính trung ương được loại bỏ vào năm 1998, PBOC đã tìm cách hiện đại hóa bộ máy chính sách tiền tệ và xây dựng các mối quan hệ gần gũi hơn với cộng đồng quốc tế.
Quan trọng hơn, các lãnh đạo của PBOC hình thành quan hệ chính trị với các nhà lãnh cải cách trong đảng, đặc biệt là Zhu Rongji (Chu Dung Cơ), người đã là thống đốc của PBOC từ 1993 đến 1995 và trở thành thủ tướng vào năm 1998. Zhu thiếu sự ủng hộ rộng rãi trong chính quyền trung ương, nhưng PBOC đã mang lại sự ủng hộ chính sách và hành chính về một loạt các vấn đề.
PBOC do đó đã giành được nhiều quyền hơn bằng cách trở thành một đồng minh không thể thiếu của các nhà lãnh đạo chính trị cải cách. Dưới sự lãnh đạo của ông Zhu, ngân hàng này đã lèo lái một cuộc hạ cánh mềm trong năm 1996 sau một đợt lạm phát cao (tới tận 24% vào năm 1993), và chiến thắng nhiều cuộc tranh luận lớn sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, đặc biệt là trong việc theo đuổi chiến lược không phá giá.
Phô diễn sức mạnh (Flexing Muscles)
Với thẩm quyền mới này, PBOC đã bắt đầu thể hiện sức mạnh của mình trong những năm 2000, đặc biệt dưới sự chỉ đạo của Thống đốc Zhou Xiaochuan, một nhà kinh tế có quan hệ mật thiết với các lãnh đạo chính trị. Mặc dù đảng vẫn kiểm soát khu vực tài chính, ngân hàng này đã và đang thăm dò một cách thận trọng các công cụ mới theo cơ chế thị trường nhiều hơn để thiết lập một chính sách tiền tệ đáng tin cậy và duy trì ổn định giá cả.
Từ năm 1979 đến 1994, tăng trưởng kinh tế trung bình đạt 10,1% trong khi lạm phát trung bình ở mức 7,7%. Từ năm 1995 đến 2011, tăng trưởng kinh tế trung bình đạt 9,9% trong khi lạm phát giảm xuống ở mức trung bình chỉ là 3,1%. Thành tích này đã mang lại cho PBOC thẩm quyền lớn hơn và nhiều dư địa hơn để quản lý kinh tế vĩ mô.
PBOC cũng đóng một vai trò trung tâm trong việc tự do hoá tỷ giá hối đoái của Trung Quốc trong năm 2005 và một lần nữa vào năm 2010, bất chấp sự phản đối gia tăng trong nội bộ. Nhận thức được tầm quan trọng của lĩnh vực ngân hàng ổn định để thực hiện chính sách tiền tệ, ngân hàng trung ương này cũng đã dẫn đầu trong cuộc cải cách ngân hàng gần đây nhằm cải thiện quản trị doanh nghiệp và kỷ luật thị trường. Theo Zhou, ngân hàng này cũng đã hoạt động tích cực trong việc cải cách chứng khoán, bảo hiểm và thị trường trái phiếu, quốc tế hóa đồng renminbi (nhân dân tệ), và thành lập hệ thống thanh toán hiện đại.
Tuy nhiên, PBOC vẫn còn phải đối mặt với rất nhiều thách thức. Trong ngắn và trung hạn, nó sẽ phải giải quyết các rủi ro nợ xấu, đặc biệt là tỷ lệ ngày càng tăng các 'ngân hàng trong bóng tối' (shadow banking) và rủi ro bất động sản và nợ chính quyền địa phương. Về lâu dài, nó sẽ phải đảm bảo sự ổn định khi Trung Hoa chuyển hướng thành nền kinh tế định hướng nội địa hơn. Điều làm cho các nhiệm vụ này trở nên khó khăn (daunting) đối với PBOC là nó phải liên tục thương lượng và đàm phán với các cơ quan nhà nước khác và với các lãnh đạo đảng. Nó cũng phải thực hiện một chính sách tiền tệ theo định hướng thị trường nhiều hơn trong khi bị hạn chế bởi các di sản của quá khứ cộng sản, chẳng hạn như sự kiểm soát của nhà nước đối với các lĩnh vực tài chính quan trọng.
Tuy nhiên, tương lai của ngân hàng này phụ thuộc không chỉ riêng ở sự vận động chính trị khéo léo. Nó phải ngăn chặn các thảm họa tài chính đã bao vây Mỹ và châu Âu trong những năm gần đây. Và điều này có lẽ lại là những thách thức khó khăn nhất.
(Stephen Bell là giáo sư kinh tế chính trị và Tiến sĩ Hui Feng là nhà nghiên cứu tại Trường Khoa học Chính trị và Nghiên cứu Quốc tế tại Đại học Queensland. Cuốn sách mới nhất của họ là "Sự nổi lên của Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa: Quan điểm chính trị của sự thay đổi thể chế." - "The Rise of People's Bank of China: The Politics of Institutional Change."
Bloomberg
http://www.loc.gov/pictures/resource/ppmsca.09798/
- Bị đình chỉ công việc chờ xác minh liên quan đến các khoản vay sai nguyên tắc.
- Thuyên chuyển qua bộ phận khác (xử lý nợ) để tập trung thu hồi nợ, làm việc bộ phận khác vất vả không quen.
- Không cho vay nên chỉ lãnh lương thuần thì không đáp ứng nhu cầu do quen xài sang.
- Áp lực tìm kiếm khách hàng vay cũng như huy động giá vốn rẻ.
- Ngân hàng chủ động cắt giảm nhân sự đối với các hợp đồng lao động tới hạn.
Theo mình thì đa số nhân lực ngân hàng làm các ngành khác như sản xuất, bán hàng thì ẹ lắm, không có sức cạnh tranh vì quan hệ giữa cung cầu đã xoay chiều.
-----
…the pace of actual trade settlement in renminbi has failed to keep up [with its role in finance]. It still accounts for just 0.8 per cent of the global total, a lower share than the Thai baht or the Swedish krona.
Người không biết đếm thì trầm trồ ngợi khen kinh tế Trung Quốc đã lớn như thổi trong mấy chục năm và vượt mặt kinh tế Anh, rồi Đức rồi Nhật để nay mai sẽ bắt kịp Hoa Kỳ. Người biết đếm thì biết lo vì không đếm ra phần nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Trung Quốc, thuộc diện bí mật quốc gia. Bí mật đến nỗi lãnh đạo Bắc Kinh cũng không biết luôn!
Người không biết đếm thì nói đến khối dự trữ ngoại tệ của Bắc Kinh, nay lên tới bốn ngàn tỷ đô la. Nếu kể thêm lượng vàng dự trữ trong công khố - một bí mật quốc gia khác - được ước lượng khoảng bốn ngàn năm trăm tấn, trị giá gần 200 tỷ đô la tính theo giá hiện hành, thì Bắc Kinh có đủ vốn dằn lưng để vượt qua sóng gió.
Người biết đếm thì biết lo hơn vậy.
Qua ba thập niên, kinh tế Trung Quốc thuộc diện "uống sâm để đạp xe hai bánh cho mạnh". Xe chạy chậm là đổ. Đó là chiến lược ráo riết đầu tư để tìm tốc độ tăng trưởng cao và sản xuất dư thừa thì xuất cảng bằng mọi giá để thu về ngoại tệ cho nhà nước. Nhưng kinh tế chính trị học Trung Quốc khiến lãnh đạo và tay chân thì uống sâm, còn dân đen và các doanh nghiệp tư nhân thì đạp xe chết bỏ. Kinh tế học gọi đó là hiện tượng "tầm tô", rent seeking, là những kẻ có ưu thế chính trị và kinh doanh thì khai thác ưu thế đó cho mình, qua chánh sách và luật lệ đầy lệch lạc.
Ưu thế ấy không tạo ra những của cải có giá trị cho quốc dân trong trường kỳ mà chỉ đem lại đặc lợi cho một thiểu số ở trên. Đó là chuyện gieo gió.
Khi Mỹ bị khủng hoảng từ vụ Lehman và hàng loạt cơ sở tài chánh và bảo hiểm khác, kinh tế toàn cầu bị Tổng suy trầm 2008-2009. Đấy là lúc Bắc Kinh lại rót sâm nữa: gia tăng công chi và bơm thêm tín dụng qua hệ thống ngân hàng của nhà nước cho các doanh nghiệp của nhà nước cùng các công ty đầu tư của các chính quyền địa phương, tức là vẫn của nhà nước. Nếu có gì lọt xuống dưới thì tư nhân còn được hưởng, nhưng đa số thì phải vay lại, hoặc vay chui với giá đắt hơn và bị nhiều rủi ro hơn.
IMF thì đếm là từ 2008 đến 2013, tổng số tài trợ tăng bằng 73% của Tổng sản lượng và xác nhận rằng con số thật có thể cao hơn. Nhiều tổ hợp đầu tư hay cơ quan nghiên cứu thì nói đến 100%, tăng gấp đôi Tổng sản lượng. Tổng sản lượng đó nay ở khoảng chín ngàn tỷ đô la: trong năm năm, Trung Quốc đã rót sâm trị giá chín ngàn tỷ! Gấp đôi liều thuốc bổ của Mỹ.
Con số thật có khi còn vĩ đại hơn: Tháng Năm vừa qua, công ty đầu tư Hoisington Investmnent Management Company tại Hoa Kỳ ước tính là tổng số dư nợ của tư nhân và nhà nước Trung Quốc lên tới 420% Tổng sản lượng 2013, so với 320% vào năm 2008.
Người biết đếm vì theo dõi tin tức khí tượng kinh tế còn chỉ ra một quầng mây đen khác: khi đầu tư và tín dụng tiếp tục đổ ra thì phần tiêu thụ nội địa lại giảm. Từ 40% Tổng sản lượng - con số quá thấp - nay chỉ còn chừng 36%, thậm chí 34%. Người uống sâm và kẻ đạp xe là vậy, nếu ta so sánh với tiêu thụ tại Mỹ (70%), Nhật (61%) hay Nam Hàn (52%).
Việc chính phủ yêu cầu ngân hàng nhà nước lấy dự trữ ngoại tệ cho chính phủ vay không khác gì chính phủ bảo NHNN in tiền mua ngoại tệ vào, rồi đưa ngoại tệ đó cho chính phủ sử dụng và qua đó nhận được một đống giấy nợ của chính phủ (dưới hình thức trái phiếu).
Khi đã đưa dự trữ ngoại tệ cho chính phủ thì chúng không còn là dự trữ ngoại tệ nữa vì dự trữ ngoại tệ được định nghĩa là tài sản ngoại tệ nằm trong tay NHNN mà NHNN, vào bất cứ lúc nào, cũng có thể biến thành tiền mặt và sử dụng để điều phối cung cầu ngoại hối và giá ngoại hối trên thị trường nhằm phục vụ nhu cầu xuất nhập khẩu và trả nợ.
Yêu cầu trên của chính quyền có thể vừa làm mất quyền quyết định về chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước, vừa có nguy cơ làm nền kinh tế mất ổn định .
Tại sao?
1. In tiền để mua ngoại tệ trên thị trường: ảnh hưởng đến lạm phát tùy mức độ phát hành tiền. Tổng cung tiền (M2) cuối năm 2013 là 209 tỷ US (tương đương). Nếu mượn khoảng 20 tỷ có nguy cơ làm tăng giá thêm 5% nếu kinh tế chỉ tăng được 5%. NHNN để trung lập hóa hành động in nêu trên thì phải phát hành trái phiếu để thu hồi tiền về. Liệu NHNN có khách hàng sẵn sàng mua trái phiếu NHNN không? Từ năm 2006 đến nay kinh tế Việt Nam trở nên bất ổn với lạm phát cao cũng vì chínhh sách in tiền cung cấp tín dụng nhằm đạt tốc độ GDP cao của chính quyền.
2. Vơ vét ngoại tệ trên thị trường sẽ gây áp lực làm tăng hối suất; việc này sẽ làm hàng Việt Nam càng thêm mất tính cạnh tranh.
3. Ảnh hưởng cộng hưởng của hai hành động in tiền và vơ vét ngoại tệ sẽ làm hối suất mất giá ở mức lớn hơn, bởi vì ngân hàng nhà nước chỉ có thể mua ngoại tệ bằng cách in tiền đồng.
Tất nhiên có một cách khác là NHNN có thể phát hành trái phiếu ngoại tệ nhưng điều này đâu có khác gì việc chính Bộ Tài chính phát hành trái phiếu ngoại tệ, tức là mượn tiền ngọai. Tôi chắc là để có người mua, lãi suất trái phiếu ngoại tệ phải cao và cần có bảo đảm của nhà nước. Và như thế chẳng khác gì việc nhà nước đi vay thẳng nước ngoài như đã từng làm.
Tuy nhiên tại sao lại có hiện tượng kỳ quái là chính quyền yêu cầu NHNN làm điều trên? Có lẽ họ đơn giản nghĩ rằng ra lệnh cho NHNN in tiền mua ngoại tệ rồi đưa cho mình tiêu thì là tiền chùa, khỏi trả lãi, mà cũng chẳng phải trả vốn.
có khoảng ba chục doanh nghiệp tư nhân và nhà nước hùn vốn vào Anbang. trong số đó, có các công ty nằm dưới sự kiểm soát của thái tử đảng Trần Tiểu Lỗ (Chen Xiaolu), con trai của cựu ngoại trưởng Trần Nghị (Chen Yi).