Nhật hoàng Akihito: Lời chia tay mãi mãi
Một biểu tượng muốn thoái vị
Tạm biệt Akihito, nhưng không hẳn là thế. Photo courtesy StateHubs.
Ngay cả đối với một thể chế khác thường như hoàng gia Nhật Bản, Nhật hoàng Akihito vẫn là một điều kì lạ. Là hậu duệ của nữ thần mặt trời Amaterasu, và là con trai của người mà nước Nhật đã lấy danh nghĩa để tiến hành chiến tranh tổng lực, Akihito đã được giáo dục bởi những thành viên khiêm nhường của Hiệp hội Tôn giáo các Tín hữu (The Quakers). Nếu có điều gì có thể khiến ông thực sự tự hào, thì đó chính là niềm đam mê dành cho loài cá — nghiên cứu với tiêu đề "Một số đặc trưng hình thái được coi là quan trọng trong sự phát sinh của loài Gobiid" là một điểm nhấn đặc biệt. Nhưng dù với bản tính khiêm tốn, ông vẫn sống trên khu đất có diện tích 115 ha với vườn tược được cắt tỉa cẩn thận ngay giữa trung tâm Tokyo đông đúc. Cuộc sống ở thủ đô, chính xác theo nghĩa đen, xoay quanh ông.
Trong vai trò là Thiên hoàng, Akihito cũng là một điều đặc biệt. Tại Nhật Bản, ông đã quỳ xuống để an ủi các nạn nhân trong những vụ thiên tai. Trên khắp châu Á, những chuyến công du thường xuyên và các bài phát biểu xúc động của ông đã góp phần bù đắp cho quá khứ quân phiệt của Nhật Bản, thậm chí ngay cả khi nền chính trị trong nước đang ngả sang hướng cực hữu.
Thủ tướng Shinzo Abe là một trong những người ủng hộ chủ nghĩa xét lại – những người vẽ ra một quá khứ đẹp đẽ. Ông và các bộ trưởng khác thích đến viếng đền Yasukuni -- nơi tôn vinh chủ nghĩa quân phiệt; trong khi Akihito lại thẳng thừng từ chối. Tờ The Economist đã từng hỏi một người hữu khuynh, người có các ấn phẩm tôn vinh chế độ hoàng gia và minh oan cho tính hiếu chiến của Nhật Bản, rằng ông cảm thấy thế nào về việc có một Thiên hoàng có tư tưởng tự do, trái ngược với hầu hết các quan điểm của mình. “Không có vấn đề gì,” ông trả lời: “Akihito hiện nay chỉ đơn thuần là một đầu tàu không hoàn hảo; đến một ngày nào đó, ông ấy sẽ hết thời.”
Và đúng vậy, trong tuần này, tin tức đã xuất hiện: vị Thiên hoàng 82 tuổi muốn nghỉ hưu. Triều đại của người cha của ông, Hirohito, trùng với khoảng thời gian Nhật Bản chuyển mình từ đế quốc quân phiệt sang cường quốc kinh tế hiện đại. Triều đại của Akihito từ năm 1989 lại chứng kiến một giai đoạn kinh tế suy giảm nhẹ và những vai trò quốc tế mờ nhạt. Quỳ gối ngang tầm mắt với thần dân dường như thừa nhận điều đó. Giờ đây viêm phổi, ung thư tuyến tiền liệt và cuộc phẫu thuật tim đã làm ông suy yếu. Phải giảm bớt một số công việc trong trọng trách của Thiên hoàng khiến ông "căng thẳng và buồn bực", như đài NHK đưa tin, với giọng điêu tôn kính dành riêng cho gia đình hoàng gia.
Nhưng trước hết, cần phải thông qua một đạo luật cho phép Nhật hoàng Akihito thoái vị -- điều chưa từng xảy ra trong thời hiện đại. Người con trai và cũng là người thừa kế ngôi vị của ông, Hoàng tử Naruhito (ngành học: Hàng hải thế kỷ XVIII trên hệ thống đường thủy của Anh), có lẽ sẽ gặp khó khăn trong vai trò này. Gia đình hoàng gia gần như là những tù nhân của Cơ quan Nội chính Hoàng gia, một cơ quan bí ẩn kiểm soát chế độ quân chủ lâu đời nhất trên thế giới. Vợ của Naruhito, Masako, nguyên là một nhà ngoại giao, bị đối xử như một máy sinh nở cho hoàng tộc (bà và Naruhito chỉ có một người con gái), và đã phải vật lộn với chứng trầm cảm. Việc Naruhito quan tâm đến dòng chảy của thượng nguồn sông Thames hơn hay những thế lực xoay quanh hoàng gia hơn, vẫn còn chưa biết được.
Minh Thu
The Economist
Tags: japanVương Minh Thu
Theo Cổ Sự Ký và Nhật Bản Thư Kỷ, Đế quốc Nhật Bản được Thần Vũ Thiên hoàng sáng lập năm 660 TCN. Tuy nhiên, phần chính sử Nhật Bản chỉ được bắt đầu với Khâm Minh Thiên hoàng, Thiên hoàng thứ 29 theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống. Đương kim Thiên hoàng là Akihito (明仁; Minh Nhân), niên hiệu là Bình Thành (平成; Heisei), nên đôi khi ông còn được gọi là Bình Thành Thiên hoàng. Ông lên ngôi vào năm 1989 sau khi cha ông, tức Chiêu Hòa Thiên hoàng (昭和天皇, Shōwa tennō) băng hà.
Với truyền thống tôn sùng Hoàng đế, Thiên hoàng được coi là Thiên tử - con của trời. Thiên hoàng bắt đầu xưng "Thiên tử" (天子 tenshi?) từ đầu thế kỷ thứ VII.
Theo huyền thoại Nhật Bản, các vị Thiên hoàng được xem là con cháu của Thái Dương Thần Nữ và do đó cũng được xem là Thần linh trước khi Thế chiến II kết thúc năm 1945. Cho đến năm 1945, triều đình Nhật đã luôn luôn là chỉ huy của các lực lượng quân sự. Tuy nhiên, hầu như thời nào, Thiên hoàng cũng bị điều khiển bởi các thế lực chính trị, với mức độ cao hay thấp, tiêu biểu là họ từng bị Mạc phủ chi phối từ thế kỷ 12 đến thế kỷ 19.
Từ giữa thế kỷ 19, Hoàng cung Nhật Bản được gọi là Kyūjō (宮城; "Cung thành"), sau đó là Kōkyo (皇居; "Hoàng cư"), và tọa lạc trên địa điểm cũ của thành Edo (江戸城; Giang Hộ thành) tại trung tâm Tokyo. Trước đó, kinh đô Nhật Bản đã đặt tại Kyoto trong gần 11 thế kỷ.
倭王/倭国王 (Wa-ō/Wakoku-ō, Vua của Oa quốc), hoặc 治天下大王 (ame-no-shita shiroshimesu ōkimi hoặc sumera no mikoto, Đại vương cai trị tất cả dưới thiên đường) trong nguồn Nhật Bản và Trung Quốc trước thế kỷ thứ 7.
Theo Nihon Shoki, các Thiên hoàng là một dòng dõi nam giới không bị gián đoạn trong hơn 2.600 năm. Chìa khóa để hiểu biết về nguồn gốc của triều đình Nhật Bản có thể nằm trong các ngôi mộ hoàng gia cổ đại được gọi là kofun. Tuy nhiên kể từ thời kỳ Minh Trị, Cơ quan nội chính Hoàng gia đã từ chối mở cửa kofun cho công chúng hoặc các nhà khảo cổ, với lý do là không để làm phiền linh hồn của các vị vua trong quá khứ. Vào tháng 12 năm 2006, Cơ quan nội chính Hoàng gia thay đổi quyết định này và cho phép các nhà nghiên cứu tiến vào một số kofun mà không bị giới hạn.
Sự phát triển của tầng lớp samurai từ thế kỷ thứ 10 dần dần làm suy yếu quyền lực của hoàng gia trên nhiều lĩnh vực, dẫn đến một thời điểm bất ổn. Thiên hoàng bắt đầu xung đột với các shogun trị vì. Một số trường hợp, chẳng hạn như cuộc nổi dậy năm 1221 của Thiên hoàng Go-Toba chống lại Mạc phủ Kamakura và Tân chính Kemmu năm 1336 dưới thời Thiên hoàng Go-Daigo đã thể hiện một cuộc đấu tranh giành quyền lực giữa hoàng gia và chính phủ quân sự của Nhật Bản.
Năm 1868, Mạc phủ bị giải tán. Một hiến pháp mới đã mô tả Thiên hoàng là "người đứng đầu đế chế, kết hợp trong chính người là chủ quyền", mà quyền lợi bao gồm xử phạt và ban hành pháp luật, chấp hành và thực hiện "mệnh lệnh tối cao của quân đội và hải quân". Một hội nghị được tạo ra vào năm 1893 cũng tôn Thiên hoàng là nhà lãnh đạo của Sở chỉ huy đế quốc.
Nhiều liên minh như thế đã được thiết lập thông qua hôn nhân. Những cuộc hôn nhân như vậy đã sớm trở thành một truyền thống điều khiển các cuộc hôn nhân của những thế hệ sau này, mặc dù liên minh thực tế ban đầu đã mất đi ý nghĩa thực sự của nó. Một mô hình được lặp đi lặp lại là người con rễ thuộc hoàng gia luôn nằm dưới sự ảnh hưởng của người cha vợ không thuộc hoàng gia.
Bắt đầu từ thế kỷ 7 và 8, Thiên hoàng chủ yếu lấy phụ nữ của gia tộc Fujiwara làm chính cung - những người hầu như là mẹ của quốc vương tương lai. Điều này được che giấu bằng một truyền thống kết hôn giữa những người thừa kế của hai kami (các vị thần của thần đạo): hậu duệ của Amaterasu với con cháu của gia đình kami thuộc gia tộc Fujiwara. (Nguyên là, tộc Fujiwara là hậu duệ từ giới quý tộc tương đối nhỏ, do đó kami của họ có một vị trí không đáng kể trong thế giới thần thoại Nhật Bản.) Con cái của hoàng gia, những người thừa kế của đất nước, với nguồn gốc đến từ hai kami được coi rất phù hợp - hoặc ít nhất là phù hợp với các lãnh chúa Fujiwara mạnh mẽ, những người nhận được ưu tiên trong các cuộc hôn nhân của hoàng gia. Thực tế đằng sau những cuộc hôn nhân như vậy là một liên minh giữa một hoàng tử của triều đình và một lãnh chúa Fujiwara (cha vợ hoặc ông nội của hoàng tử), người với các nguồn lực của mình sẽ hỗ trợ hoàng tử lên ngôi và thường xuyên nắm quyền kiểm soát chính phủ. Những sắp xếp này tạo ra truyền thống nhiếp chính (Sesshō và Kampaku), với các vị trí này chỉ được giữ bởi một lãnh chúa sekke của Fujiwara.
Trước đó, các Thiên hoàng thường kết hôn với những phụ nữ từ gia đình của các lãnh chúa Soga và phụ nữ của chính gia tộc hoàng gia, tức là anh em họ và thậm chí là chị em (chị em cùng cha khác mẹ/cùng mẹ khác cha). Một số người của hoàng gia thuộc thế kỷ thứ 5 và thứ 6 như Thái tử Shōtoku là con của các cặp vợ chồng như vậy. Những cuộc hôn nhân này thường là liên minh hoặc công cụ để lên ngôi: các lãnh chúa Soga đảm bảo sự thống trị của mình khi vị hoàng tử được đặt trên ngai vàng là con rối do chính lãnh chúa đó điều khiển; hay một hoàng tử bảo đảm sự kết hợp của hai gia tộc để tăng cường quyền lên ngôi của chính ông và con cháu. Những cuộc hôn nhân cũng là một phương tiện để đánh dấu một sự hòa giải giữa hai nhánh của triều đình.
Sau vài thế kỷ, Thiên hoàng không thể nào chọn bất cứ ai từ những gia đình bên ngoài để làm chính cung, mặc cho những lợi ít về quyền lực hay sự giàu có do một cuộc hôn nhân như vậy mang lại. Rất hiếm khi một hoàng tử lên ngôi mà người mẹ không có nguồn gốc từ các gia đình đã được phê duyệt. Sự cần thiết trước kia đã biến đổi thành một truyền thống nghiêm ngặt. Truyền thống đã trở nên ép buột hơn so là thành luật.
Phụ nữ Fujiwara thường làm hoàng hậu trong khi phi tần lại đến từ các gia đình quý tộc ít cao quý. Trong hàng ngàn năm, con trai của một người nam của hoàng gia và một phụ nữ của tộc Fujiwara thường là người được nối ngôi.
Năm chi họ của Fujiwara là Ichijō, Kujō, Nijō, Konoe và Takatsukasa là nguồn cung cấp thái tử phi từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 19, thậm chí thường xuyên hơn so với con gái của hoàng thân. Con gái của tộc Fujiwara do vậy thường là hoàng hậu và là mẹ của Thiên hoàng.
Sự hạn chế này về cô dâu của Thiên hoàng và thái tử đã được thực hiện rõ ràng hơn trong thời đại Meiji bởi luật hoàng gia năm 1889. Một điều khoản trong đó quy định rằng con gái của Sekke (năm chi nhánh chính của Fujiwara) và con gái của gia tộc hoàng gia thường là cô dâu được chọn.
Luật này được bãi bỏ sau Thế chiến II. Thiên hoàng đương nhiệm, Akihito, đã trở thành thái tử đầu tiên trong hơn một ngàn năm kết hôn với một phụ nữ từ bên ngoài.
Thực chất bản tuyên ngôn này không được chính thức đặt tên, cái tên "Tuyên ngôn nhân gian" chỉ là tên thông dụng của nó. Ngoài ra bản tuyên ngôn này còn có các tên khác như Chiếu thư về việc kiến tạo một nước Nhật Bản mới (新日本建設に関する詔書 Shin Nippon Kensetsu ni Kan suru Shōsho?) và Chiếu thư đầu năm về việc chấn hưng vận nước (年頭、国運振興の詔書 Nentō, Kokuun Shinkō no Shōsho?).
“朕ト爾等國民トノ間ノ紐帯ハ、終始相互ノ信頼ト敬愛トニ依リテ結バレ、單ナル神話ト傳説トニ依リテ生ゼルモノニ非ズ。天皇ヲ以テ現御神トシ、且日本國民ヲ以テ他ノ民族ニ優越セル民族ニシテ、延テ世界ヲ支配スベキ運命ヲ有ストノ架空ナル觀念ニ基クモノニモ非ズ。 ”
— Tuyên ngôn nhân gian,
“The ties between Us and Our people have always stood upon mutual trust and affection. They do not depend upon mere legends and myths. They are not predicated on the false conception that the Emperor is divine, and that the Japanese people are superior to other races and fated to rule the world.”
— Bản dịch tiếng Anh của Tuyên ngôn nhân gian,
Tạm dịch:
“Mối quan hệ giữa Trẫm và các thần dân luôn luôn là dựa vào lòng tin và sự thương yêu lẫn nhau, chớ không phải dựa vào các huyền thoại và dị đoan. Quả nhân xin khẳng định rằng quan niệm về hoàng đế là thần thánh và người Nhật Bản là dân tộc siêu hạng so với các dân tộc khác và có trọng trách là thống trị thế giới này là một quan niệm sai lầm."
Tuy nhiên, ý nghĩa của bản tuyên ngôn - vốn được trình bày bởi một ngôn ngữ cổ và cầu kỳ của Hoàng gia Nhật Bản - luôn trở thành một đề tài cho nhiều cuộc tranh cãi. Ví dụ như thay vì dùng cụm từ thông dụng "Hiện nhân thần" (現人神, arahitokami) để ám chỉ "vị thần sống" (tức Thiên hoàng), bản tuyên ngôn sử dụng cụm từ "Hiện ngự thần" (現御神, akitsumikami). Trong khi "Hiện ngự thần" có thể được hiểu đơn giản là "thần sống", một số học giả như John W. Dower và Herbert P. Bix cho rằng "Hiện ngự thần" mang nghĩa là "hiện thân của thần thánh" hoặc cao hơn nữa hàm ý chủ thể là một vị thần thật sự chứ không phải thần sống nữa. Điều này có nghĩa là "Hiện ngự thần" có thể "cao cấp" hơn "Hiện nhân thần", và nếu Thiên hoàng không thừa nhận ông là một "Hiện ngự thần" thì ông vẫn có thể là một "Hiện nhân thần", tức vẫn là một vị thần sống.
Bản thân Thiên hoàng Chiêu Hòa vẫn kiên trì quan điểm rằng dòng dõi Hoàng tộc Nhật Bản là con cháu của Thiên Chiếu Đại thần. Trong tháng 12 năm 1945 Thiên hoàng nói với Kinoshita Micho, viên Phó Tổng Thị tùng của ông như sau:
“Chúng ta có thể chấp nhận việc cho rằng người dân Nhật Bản có nguồn gốc thần thánh là một quan niệm sai sự thật; tuy nhiên việc cho rằng Thiên hoàng là con cháu của thần thánh là một điều hão huyền thì thật khó mà chấp nhận được.”
— Thiên hoàng Chiêu Hòa,