Chính sách kiệm ước: nguyên nhân khiến các thuộc địa Mỹ nổi dậy
Một bức họa trào phúng vào khoảng năm 1766 nhân dịp kỷ niệm sự hủy bỏ đạo Luật thuế Tem (Stamp Act). Thủ tướng George Grenville, người áp dụng thuế này lên các thuộc địa Mỹ, đang mang hộp áo quan (coffin). Nguồn: Thư viện Quốc hội (Mỹ). Phòng In ấn và Nhiếp ảnh.
By Andrew Edwards / Sơn Phạm dịch
Vào lúc này, khu vực đồng euro đang cố gắng ép buộc các nước thành viên tuân thủ tài khóa thông qua các gói giải cứu, các chương trình thắt lưng buộc bụng và kiểm soát dòng vốn, có lẽ cũng nên cân nhắc lời khuyên từ một tiền lệ trong lịch sử: Cuộc Cách mạng Mỹ.
Vào đầu thế kỷ 18, vai trò của Bắc Mỹ trong đế quốc Anh tương tự như vai trò của Cyprus và Slovenia trong khu vực euro ngày nay. Những người Mỹ là các nô lệ, dân buôn lậu, chở rượu lậu (rumrunner) và những người cuồng tín - những người 'giàu có, thương mại và thịnh vượng' khi họ tăng trưởng tài khóa một cách vô trách nhiệm. Nhưng khi đế quốc Anh cố gắng để có thể trả được nợ sau cuộc Chiến tranh Bảy năm, chính phủ của Thủ tướng George Grenville đã nỗ lực để áp buộc những thuộc địa này vào kế hoạch 'kiệm ước tài khóa'.
'Hoàn cảnh của thời đại, sự túng thiếu của đất nước, và khả năng của thuộc địa, những yếu tố này kết hợp lại là nguyên nhân cần có (luật) thuế Mỹ (American Revenue)', Thomas Whately, đồng minh của Grenville viết vào năm 1765.
Rõ ràng đế quốc Anh thế kỷ 18 và khu vực euro ngày nay là hoàn toàn khác nhau, nhưng những tương đồng vẫn đáng để chú ý: một cơ quan trung ương không được dân bầu (ít nhất là không phải bởi những người Bắc Mỹ), cố gắng giải quyết vấn đề tài khóa thông qua việc gây đau đớn sai lầm lên (các nước) ngoại vi.
Khu vực euro
Khi Ủy ban châu Âu, Ngân hàng Trung ương châu Âu và Quỹ Tiền tệ quốc tế cố gắng duy trì sự tồn tại của khu vực euro, họ có lẽ muốn ghi nhớ ví dụ về đế quốc Anh. Và nhiều nước như Cyprus hay Hy Lạp có lẽ muốn nhìn vào mô hình nước Mỹ non trẻ, để thấy một lối thoát.
Vào năm 1765, đế chế Anh nợ 130,6 triệu bảng từ những trái chủ và các chủ nợ ngoại quốc. Con số này tương đương với 9,7 tỷ bảng (hay 15 tỷ USD) thời giá ngày nay. Con số có lẽ không lớn lắm, nhưng cũng đã gấp hơn 10 lần ngân khố 12 triệu bảng của đế chế Anh vào năm 1765. Nó cũng kế thừa số tiền lãi nợ phải trả hàng năm là 4,7 triệu bảng.
Trong khi đó, thuế của đế chế Anh đối với thuộc địa Mỹ vẫn ở mức tối thiểu. Số tiền chuyển trực tiếp từ các thuộc địa này về Bộ Ngân khố chỉ trung bình 1.900 bảng trong hơn 30 năm trước đó, và đã giảm từ khi cuộc chiến bắt đầu. Vấn đề còn 'nghịch lý hơn', theo Whately, khi phải mất số tiền 7.600 bảng một năm để có thể thu được những đồng thuế này.
'Toàn bộ thu nhập quốc gia khổng lồ này được huy động bởi đế chế Anh (UKGRABIQ), và do người dân đế chế Anh nộp,' Whately viết. Những thuộc địa Bắc Mỹ, với 2 triệu thần dân Anh, ông viết thêm, đóng góp 'cho chi tiêu quốc gia thông qua nộp thuế ở đó, không nhiều hơn 700 hay 800 bảng.'
Trong khi đó, những người Mỹ lại chỉ có khoảng 800.000 bảng trong nợ công. Whately cho rằng rõ ràng là họ có thể nộp nhiều hơn.
Chính phủ nội các Grenville đưa ra giải pháp 3 phần. Đầu tiên, Quốc hội cấm người Mỹ được in đồng tiền riêng của mình, ngầm ý ép buộc họ theo chế độ bản vị bạc đang được áp dụng trên toàn đế quốc. Thứ hai, chính phủ ra lệnh các sĩ quan hải quân đế chế Anh triển khai lại để bắt những trường hợp buôn lậu Mỹ và tăng thuế hải quan. Cuối cùng, người Mỹ, lần đầu tiên, sẽ bị buộc phải nộp thuế bằng bạc thẳng cho Bộ Ngân khố Trung ương, trường hợp nổi tiếng 'đánh thuế không đếm xỉa gì đến đại diện của họ' (taxation without representation).
Kế hoạch có vẻ ổn trên giấy tờ. Đối với Thủ tướng, những thuế này vẫn còn ít - chỉ khoảng 100.000 bảng một năm - ít hơn một nửa so với số tiền chi tiêu mỗi năm để duy trì lực lượng quân đội ở Mỹ. Các cuộc biểu tình phản đối từ các đại diện (agent) Mỹ và những lái buôn London đã bị giải tán.
Grenville 'nói chúng tôi nói với ông ấy rằng chúng tôi còn nghèo, và không đủ khả năng chi trả những thuế này; những người khác nói với ông ấy là chúng tôi có thể,' đại diện Connecticut - ông Jared Ingersoll nhớ lại. 'Bây giờ, ông ấy nói, hãy tự tay giải quyết công việc, bạn sẽ thấy nó bức thiết (pinch) ở chỗ nào và như thế nào, và chắc chắn sẽ làm cho chúng tôi biết trong trường hợp nào được giảm nhẹ.'
Người thu thuế
Ingersoll chấp nhận vị trí như là người thu thuế (Stamp Collector) - một bước đi khiến về sau ông phải hối tiếc - và trở lại Connecticut để bắt đầu thực hiện những thuế mới này. Đây là một vấn đề đau đầu. Những thuế này xâm nhập (infiltrate) vào hầu hết các khía cạnh đời sống người dân Mỹ, bao gồm báo in và các tờ rơi, các văn bản pháp luật, trái phiếu và trao đổi thư tín thương mại.
Nhưng khi Ingersoll tính toán các con số, ông nhận thấy một vấn đề thúc bách - người Mỹ - ít nhất là ở Connecticut - không có đủ bạc để nộp thuế bởi sự giàu có của họ gắn liền với đất, gia súc và chở hàng.
Thêm vào đó, đồng bạc mà những người Mỹ đã chuyển về đế chế Anh - không phải để trả thuế, mà để chi trả số tiền 4 triệu bảng người Mỹ nợ các lái buôn đế chế Anh tiền chè, cà phê và các hàng hóa khác.
Kết quả là một bài toán hóc búa (conundrum). Ingersoll dự tính các thuế tem ở Connecticut khoảng 4.000 bảng một năm. Không nhiều, nhưng cũng đủ để làm phá sản thuộc địa này.
Ingersoll viết, 'tôi băn khoăn rằng liệu chúng ta thậm chí có được số tiền đó trong thuộc địa không.'
Nói cách khác, người Mỹ bị đánh thuế bằng một đồng tiền mà họ không kiểm soát, không sở hữu, và bị yêu cầu trả những món nợ mà họ không mắc.
Họ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc nổi dậy, và họ đã làm vậy. Chính phủ Grenville bị mất chức và đạo Luật thuế Tem bị bãi bỏ. Nhưng sự tàn phá thì đã xảy ra.
Như nhà kinh tế đế chế Anh - Arthur Young nói vào đêm trước chiến thắng của nước Mỹ trong cuộc cách mạng: triết lý của Grenville phải chịu trách nhiệm.
'Do đó không có gì là vô căn cứ khi nói rằng, những người này, hay cơ quan khác, hay Thủ tướng, là nguyên cớ cuộc chiến tranh Mỹ,' Young viết vào năm 1780. 'Không phải là đạo Luật thuế Tem, hay sự hủy bỏ của nó; không phải là Lord Rockingham hay Lord North, mà chính tinh thần độc quyền thương mại xấu xa (baleful) muốn cai trị các quốc gia lớn, là công thức ngắn gọn của cuộc chiến này (on the maxims of the counter).'
Những câu chữ đáng cân nhắc ngày nay.
(Andrew Edwards là nghiên cứu sinh lịch sử nước Mỹ tại Đại học Princeton.)
Bloomberg
Tags: economics
Chiến tranh này liên quan đến những người đang lập cư tại đây khi ông William Pitt quyết định rằng phải thắng chiến tranh chống Pháp bất kể mất mát. Trong lúc chiến tranh địa vị của các thuộc địa trong Đế quốc Anh được làm rõ, khi các viên chức quân sự và thường dân đụng chạm vào cuộc đời của những người Mỹ nhiều hơn. Chiến tranh này đã dẫn đến một cảm giác đoàn kết giữa những người Mỹ bằng nhiều cách khác. Nhiều người thường chưa bao giờ rời khỏi thuộc địa của họ đã lặn lội xuyên qua lục địa, thành đồng đội với những người khác, nhưng vẫn là "người Mỹ". Trong cuộc chiến nhiều sĩ quan Anh đã huấn luyện những sĩ quan người Mỹ (nổi bật nhất là George Washington), sau này có công trong cuộc cách mạng. Thêm vào đó, các cơ quan lập pháp và viên chức từ các thuộc địa hợp tác với nhau trong một nỗ lực chống Pháp trong toàn lục địa.
Quân Anh và những người Mỹ đã đánh bại kẻ thù chung. Lòng trung thành từ khác thuộc địa đối với nước mẹ mạnh hơn bao giờ. Tuy thế, lòng trung thành này sớm bị đánh mất. Thủ tướng Anh thời đó (William Pitt) đã dùng quân từ các thuộc địa và quỹ từ tiền thuế từ Anh để đánh Pháp. Cách này được thành công trong chiến tranh, nhưng sau chiến tranh mỗi phía đều tin rằng họ đã gánh chịu nhiều gánh nặng hơn phía kia. Dân chúng Anh chỉ ra rằng các thuộc địa không trả tiền thuế má. Những người thuộc địa trả lời rằng những con em của họ đã bỏ ra xương máu trong một cuộc chiến làm lợi châu Âu chứ không làm lợi họ. Phía Anh trả lời rằng những lính thuộc địa thiếu kỷ luật, không làm được gì. Việc này đã dẫn đến một loạt các sự kiện cuối cùng dẫn đến Cách mạng Mỹ.
Nhiều cấu trúc chính trị trong các thuộc địa có nền tảng từ truyền thống chính trị tại Anh. Nhiều người Mỹ thời đó xem hệ thống chính quyền như được theo mô hình của hiến pháp Anh lúc đó - vua tương xứng với thống đốc, Hạ nghị viện với Hội đồng Lập pháp của mỗi thuộc địa và Thượng nghị viện với Hội đồng Thống đốc. Bộ luật thường được chép từ luật Anh; luật tập tục Anh (Common law) vẫn còn tồn tại trong Hoa Kỳ ngày nay. Cuối cùng, sự bàn cãi về ý nghĩa của một vài lý tưởng chính trị này, đặc biệt là việc đại diện, đã dẫn đến cuộc Cách mạng Mỹ.
Lực lượng quan trọng nhất dẫn đến cuộc cách mạng giải phóng 13 thuộc địa bắc Mỹ chính là Những người con của Tự do mà nhiều người cho rằng, nếu không có họ thì sẽ không có cuộc cách mạng Mỹ.
Có nhiều giả thuyết về nơi họ bắt nguồn (Boston, New York hay Connecticut), nhưng đóng vai trò quan trọng nhất có lẽ là Những người con của Tự do ở Boston do John Adams, người sau này trở thành một trong những cha đẻ và Tổng thống thứ 2 của Mỹ lãnh đạo, cho dù ông không có tên chính thức trong đó do phải hoạt động công khai.
Những người con của Tự do được ra đời để chống lại chính sách thuế khóa hà khắc của chính quyền thuộc địa của người Anh. Thực chất đây là một hội kín đã tổ chức hàng loạt các hoạt động gây bất ổn hay dựa vào một số sự kiện xảy ra để tạo thanh thế và uy tín của mình, trong đó phải kể đến Thảm sát Boston và Tiệc trà Boston.
Ngày 3/5/1770, trong một vụ đụng độ ở thành Boston, quân đội Anh xả súng làm chết 5 người và làm bị thương 6 người. Mạng người là quan trọng, nhưng với mức thiệt hại này, nhiều người cho rằng đó chỉ là đổ máu của một vụ nổi loạn thông thường. Tuy nhiên, Những người con của Tự do đã phóng đại nó thành một vụ thảm sát để dấy lên lòng căm thù với quân đội thuộc địa và tranh thủ sự ủng hộ của công chúng.
Các binh lính Anh dính líu đã bị bắt. Lúc bấy giờ, hầu hết mọi người đều tin rằng những binh lính này là có tội và họ đã không tìm được luật sư bảo vệ cho mình. Cuối cùng họ đã nhờ Luật sư Jonh Adams.
Tuy rất sợ việc bào chữa cho những người đã xả súng vào dân chúng sẽ ảnh hưởng đến uy tín của mình, nhất là ở vị trí của người lãnh đạo cách mạng, nhưng với lương tâm và nghề nghiệp của mình, luật sư John Adams cùng với Josiah Quincy đưa ra các chứng cứ xác đáng để chứng minh rằng 6 binh lính Anh vô tội, kể cả đồn trưởng Preston. Chỉ có hai người bị kết tội ngộ sát.
John Adams đã có phát biểu nổi tiếng trong vụ này rằng: “Thực tế là những thứ cứng đầu; và cho dù những điều chúng ta mong muốn, những khuynh hướng của chúng ta và những tiếng gọi từ cảm xúc của chúng ta là gì, chúng không thể thay đổi sự thực và chứng cứ.”
Tuy vụ thảm sát có kết cục như vậy, nhưng nó đã dấy lên lòng căm thù của dân chúng thuộc địa để sau đó ba năm xảy ra Tiệc Trà Boston. Ngày 16/12/1773, Những người con của Tự do đã tổ chức bạo loạn để đổ trà của Công ty Đông Ấn thuộc chính quyền thuộc địa xuống biển ở cảng Boston.
Về vật chất, cuộc nổi loạn này chỉ làm thiệt hại một ít tài sản của các doanh nhân (chưa đến 1 triệu đôla quy về giá trị hiện nay). Tuy nhiên, nó đánh dấu con đường bạo động để giành độc lập của Mỹ. Một loạt sự kiện đã được kích hoạt sau đó để đến ngày 4/7/1976, nước Mỹ chính thức tuyên bố độc lập.
Thậm chí, trang USHistory.org viết rằng họ chỉ là những kẻ du thủ du thực. Nếu lịch sử nước Mỹ không sang trang hay theo một chiều hướng khác thì những người này sẽ được viết khác đi.
Trang này cũng viết, trong cuộc cách mạng Mỹ, chỉ có khoảng một phần ba dân số Mỹ là ủng hộ và đi theo cách mạng, một phần ba đi theo chính quyền thuộc địa và một phần ba chẳng theo bên nào cả.
Khi cuộc Cách mạng Mỹ thành công thì những người ở bên thắng cuộc được xem là anh hùng còn những người ở phía bên kia bị cho là những kẻ phản bội. Ngược lại, khi chính quyền thuộc địa còn thì những người làm việc cho họ được tôn vinh.
Nhiều người, nhiều gia đình đã phải li hương. Bi kịch nhất là đối với những gia đình có cả người ở cả hai phía.
Cần phải có thời gian để những vấn đề nêu trên trong cuộc cách mạng Mỹ cũng như cuộc chiến Nam - Bắc sau này nhòa dần đi trong tâm trí người Mỹ. Những thế hệ sau đó đã không còn bận tâm nhiều và họ đã cùng nhau tạo dựng lên nước Mỹ ngày nay.