Chi phí cơ hội
... chi phí cơ hội của một vật là tất cả những vật khác bạn phải bỏ ra để có được nó. Khi các nhà kinh tế nói về chi phí sản xuất của doanh nghiệp, họ tính tất cả chi phí cơ hội phát sinh trong quá trình sản xuất ra sản lượng hàng hóa và dịch vụ.
Chi phí cơ hội của sản xuất có khi rõ ràng, có khi không. Khi Helen trả 1000 đôla để mua bột mỳ, thì 1000 đôla đó là chi phí cơ hội, bởi vì Helen không thể dùng 1000 đôla đó để mua thứ khác nữa. Tương tự, khi Helen thuê công nhân nướng bánh, tiền lương cô phải trả là một phần chi phí của doanh nghiệp. Đây là những chi phí hiện. Ngược lại, một số chi phí cơ hội là chi phí ẩn. Chúng ta hãy tưởng tượng ra rằng Helen thạo máy tính và có thể kiếm 100 đôla/giờ khi làm công việc của chuyên viên máy tính. Mỗi giờ Helen sử dụng để làm việc trong nhà máy bánh ngọt, cô mất đi 100 đôla thu nhập và phần thu nhập mất đi này cũng là một phần chi phí của cô.
Sự khác biệt này giữa chi phí ẩn và chi phí hiện cho chúng ta thấy điểm khác nhau quan trọng giữa phương pháp phân tích doanh nghiệp của nhà kinh tế và nhà kế toán. Các nhà kinh tế quan tâm đến việc nghiên cứu xem doanh nghiệp làm cách nào để đưa ra các quyết định về sản xuất và giá cả. Bởi vì những quyết định này dựa vào cả chi phí hiện và chi phí ẩn nên các nhà kinh tế xem xét cả hai khi tính chi phí của doanh nghiệp. Ngược lại, nhà kế toán làm công việc theo dõi các dòng tiền chảy ra và chảy vào doanh nghiệp. Do vậy, họ phải tính các chi phí hiện, nhưng thường bỏ qua chi phí ẩn.
Sự khác biệt giữa nhà kinh tế và nhà kế toán thật dễ nhận ra trong trường hợp cụ thể của nhà máy bánh ngọt Helen. Khi Helen bỏ cơ hội kiếm tiền với tư cách chuyên viên máy tính, kế toán viên của cô không tính nó vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi vì không có luồng tiền nào ra khỏi nhà máy để trả cho chi phí đó, nên nó không được biểu thị trên các bản kết toán tài chính của người kế toán. Nhưng nhà kinh tế coi phần thu nhập mất đi là một khoản chi phí, bởi vì nó tác động đến quyết định mà Helen đưa ra trong công việc kinh doanh của mình. Ví dụ, nếu tiền lương của Helen với tư cách chuyên viên máy tính tăng từ 100 đôla lên 500 đôla/giờ, cô có thể nghĩ rằng việc điều hành nhà máy bánh ngọt quá tốn kém và quyết định đóng cửa nhà máy để đi làm chuyên viên máy tính cả ngày.
CHI PHÍ TƯ BẢN VỚI TƯ CÁCH MỘT LOẠI CHI PHÍ CƠ HỘI
Một chi phí ẩn quan trọng đối với hầu hết các doanh nghiệp là chi phí cơ hội của tư bản tài chính (hay vốn) được đầu tư vào kinh doanh. Giả sử Helen sử dụng 300.000 đôla tiền tiết kiệm của mình để mua nhà máy bánh ngọt của người chủ cũ. Nếu không làm như vậy, Helen có thể dùng số tiền này gửi vào tài khoản tiền gửi ngân hàng đem lại lãi suất 5% và mỗi năm nhận được 15.000 đôla. Cho nên để sở hữu nhà máy sản xuất bánh ngọt, Helen đã phải từ bỏ 15.000 đôla thu nhập mỗi năm. 15.000 đôla mất đi mỗi năm là một trong các chi phí cơ hội ẩn trong hoạt động kinh doanh của Helen.
Như chúng ta đã thấy, nhà kinh tế và nhà kế toán có cách xử lý chi phí khác nhau và điều này đặc biệt đúng trong việc xử lý chi phí tư bản. Nhà kinh tế coi 15.000 đôla thu nhập về lãi suất mà Helen từ bỏ mỗi năm là chi phí cho công việc kinh doanh của cô, mặc dù đó là một khoản chi phí ẩn. Song nhân viên kế toán của Helen không coi 15.000 đôla này là chi phí, bởi vì không có khoản tiền nào chảy ra khỏi doanh nghiệp để thanh toán cho khoản chi phí đó.
Để hiểu sâu hơn sự khác biệt giữa nhà kinh tế và nhà kế toán, chúng ta hãy thay đổi ví dụ trên một chút. Bây giờ chúng ta giả định rằng Helen không có đủ 300.000 đôla để mua nhà máy, vì vậy cô chỉ dùng 100.000 đôla tiền tiết kiệm của riêng mình và vay 200.000 đôla còn thiếu từ một ngân hàng với lãi suất 5%. Nhân viên kế toán của Helen, người chỉ tính chi phí hiện, bây giờ sẽ coi khoản lãi suất 10.000 đôla để trả lãi cho ngân hàng mỗi năm là chi phí, bởi vì bây giờ khoản tiền này chảy ra khỏi doanh nghiệp. Ngược lại, theo quan điểm của nhà kinh tế, chi phí cơ hội của việc sở hữu doanh nghiệp hiện vẫn là 15.000 đôla. Chi phí cơ hội bằng lãi suất trả cho ngân hàng (chi phí hiện bằng 10.000 đôla) cộng với phần lãi suất tiết kiệm mất đi (chi phí ẩn bằng 5.000 đôla).
LỢI NHUẬN KINH TẾ VÀ LỢI NHUẬN KẾ TOÁN
Quan điểm của nhà kinh tế:
Doanh thu = Chi phí hiện + Chi phí ẩn + Lợi nhuận kinh tế (trong đó: Chi phí hiện + Chi phí ẩn = Tổng chi phí cơ hội)
Quan điểm của nhà kế toán:
Doanh thu = Chi phí hiện + Lợi nhuận kế toán --> Lợi nhuận kinh tế = Lợi nhuận kế toán - Chi phí ẩn
P 294 - Principles of Economics
Ai chịu thuế đánh vào hàng xa xỉ?
Mối lợi từ thương mại
Tổn thất tải trọng
Ảnh hưởng ngoại hiện
Sinh mạng con người đáng giá bao nhiêu?
Tại sao bò không bị tuyệt chủng?
Thuế!
Chi phí cơ hội
Độc quyền kim cương DeBeers
Định giá
Tình trạng lưỡng nan của người tù
Quảng cáo và giá mắt kính
Tác động của dịch chuyển lao động
Phân biệt đối xử với lao động
Luật tiền lương tối thiểu
Phúc lợi
Thuế thu nhập âm
Mối lợi từ thương mại
Tổn thất tải trọng
Ảnh hưởng ngoại hiện
Sinh mạng con người đáng giá bao nhiêu?
Tại sao bò không bị tuyệt chủng?
Thuế!
Chi phí cơ hội
Độc quyền kim cương DeBeers
Định giá
Tình trạng lưỡng nan của người tù
Quảng cáo và giá mắt kính
Tác động của dịch chuyển lao động
Phân biệt đối xử với lao động
Luật tiền lương tối thiểu
Phúc lợi
Thuế thu nhập âm
Tags: economics
[img]http://www.smbc-comics.com/comics/20121229.gif[/img]
Tâm lý con người thường hành động trái ngược với suy luận đúng đắn.
Chẳng hạn, lỡ mua một món ăn về nhà mới phát hiện nó vừa dở vừa đắng nhưng các bà mẹ chúng ta thường vẫn cố gắng ăn cho bằng hết, với lập luận bỏ đi thì tiếc. Chuyện này xảy ra thường xuyên trong cuộc sống: bỏ tiền mua vé xem phim, phim vừa nhàm vừa nhảm nhưng vẫn có người nán lại coi cho hết để khỏi phí tiền mua vé; mua phải một món đồ bàn ghế trong nhà nhưng không vừa ý, ít ai dám quẳng cho ve chai mà vẫn phải gánh chịu sự bực mình hàng ngày!
Những tưởng sự phi lý đó chỉ xảy ra ở các cá nhân, trong cuộc sống bình thường. Thế nhưng hiện tượng tiếc nuối chi phí đã bỏ ra, rồi để các chi phí không còn cứu vãn được nữa này tác động lên quyết định tiếp tục thực hiện dự án hay thôi vẫn đang xảy ra với khá nhiều doanh nghiệp.
Khác với dự án Tân Rai đã đưa vào vận hành, dự án khai thác bauxite Nhân Cơ ở Đắk Nông vẫn đang thi công dang dở. Dự án này chịu cảnh chi phí tăng so với dự tính ban đầu đến 40% (lên quá 16.000 tỷ đồng so với dự toán ban đầu là 11.624 tỷ đồng). Đến nay đã thực hiện việc xây dựng đạt tổng giá trị 6.900 tỷ đồng.
Theo nhiều phân tích từ nhiều nguồn khác nhau, dự án này nếu đi vào khai thác sẽ từ lỗ đến lỗ. Còn bản thân chủ đầu tư thì nói dự án sẽ có hiệu quả bởi giá nhôm hiện đang thấp nhưng “chắc chắn sẽ lên cao và ổn định sau này”! Dù không có hiệu quả kinh tế thì dự án cũng có hiệu quả kinh tế-xã hội và phải nhìn đến tương lai mấy chục năm về sau. Hay nói cách khác, chủ đầu tư cũng gián tiếp thừa nhận dự án khó mà có lãi.
Thế nhưng nếu có ai khuyên nên dừng dự án thì hàng loạt câu hỏi sẽ bật lên: vật liệu, máy móc đã đổ vào đó rất lớn rồi, tiền đã đổ ra hàng ngàn tỷ đồng, dừng là dừng thế nào?
Tiền đã đổ ra là nước đã đổ đi rồi, làm sao thu về được nữa. Cái gì đã không thu về được nữa thì tốt nhất là quên nó đi, đừng đua nó vào những toan tính cân nhắc cho tương lai dự án. Cái lập luận này, dễ thấy khi nói về món ăn, vé xem phim, cái bàn, cái ghế nhưng sẽ rất khó hình dung khi liên quan đến một nhà máy khổng lồ, đến những khoản tiền hàng ngàn tỷ đồng.
Thế nhưng bản chất chúng vẫn giống nhau – tất cả đều là chi phí đã bỏ ra và đã biến mất – mà giới kinh doanh gọi là sunk cost. Ngưng bây giờ thì Nhân Cơ chỉ mất 6.900 tỷ đồng. Nếu không ngưng con số thiệt hại chắc chắn sẽ lên 16.000 tỷ đồng và số lỗ lã hàng chục năm sau đó nữa. Ngưng thì bauxite vẫn còn đó không ngưng thì vừa mất tiền vừa mất tài nguyên.